Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015 - Khái niệm, phạm vi

16/08/2016
1. Về khái niệm những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Xét dưới góc độ lịch sử lập pháp hình sự, chế định các trường hợp loại trừ TNHS đã được ghi nhận khá sớm trong pháp luật hình sự, được đánh dấu bằng sự ra đời của Chỉ thị số 07/HS-2 ngày 22/12/1983 của TANDTC về việc chỉ đạo Tòa án các cấp thống nhất xét xử hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ[1]. Trong lần pháp điển hóa pháp luật hình sự đầu tiên, theo quan niệm hiện nay, BLHS năm 1985[2] đã quy định 04 trường hợp được coi là trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: Phòng vệ chính đáng (Điều 13), tình thế cấp thiết (Điều 14), sự kiện bất ngờ (Điều 11), tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 12) nằm trong chương Tội phạm (chương III). BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tiếp tục quy định 04 trường hợp nói trên trong chương Tội phạm (chương III). Đến BLHS năm 2015, quy định về các trường hợp loại trừ TNHS đã được hoàn thiện với việc chính thức quy định thống nhất một chương – Chương các trường hợp loại trừ TNHS (chương IV) bao gồm 04 trường hợp như trong BLHS năm 1999, bổ sung thêm 03 trường hợp mới[3].
Xét dưới góc độ khoa học pháp luật hình sự, từ tên gọi, khái niệm, bản chất pháp lý và phạm vi các trường hợp được coi là các trường hợp loại trừ TNHS trong khoa học pháp luật hình sự mặc dù đã thống nhất được ở một số nội dung cơ bản, tuy nhiên vẫn còn tồn tại sự khác nhau nhất định, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất, gọi tên các trường hợp loại trừ TNHS là các căn cứ hợp pháp của hành vi gây thiệt hại và bao gồm 02 trường hợp là phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết[4].
Quan điểm thứ hai, với tên gọi những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, đó là tình tiết được quy định trong BLHS mà khi có những tình tiết ấy thì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự không bị coi là tội phạm. Quan điểm này cho rằng các trường hợp loại trừ TNHS bao gồm 10 trường hợp: Sự kiện bất ngờ; gây thiệt hại nhưng chưa đủ tuổi chịu TNHS; gây thiệt hại trong tình trạng không có năng lực TNHS; tính chất nguy hiểm cho xã hội ở mức độ không đáng kể; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh cấp trên; sự rủi ro (mạo hiểm) chấp nhận được (có căn cứ) về kinh tế hoặc nghề nghiệp; tình trạng bất khả kháng và sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại trong khi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã[5].
Quan điểm thứ ba, cho rằng loại trừ TNHS là trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự thì họ không phải chịu TNHS về hành vi này. Theo quan điểm này, phạm vi các tình tiết được coi là tình tiết loại trừ TNHS là khá rộng, không chỉ bao gồm các tình tiết như quan điểm thứ hai, mà còn bao gồm: Gây thiệt hại cho xã hội trong tình trạng say hoặc dùng chất kích thích mạnh khác như do bị ép buộc dẫn đến mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi; hành vi phạm tội thái quá của người thực hành trong đồng phạm; giúp người đã thành niên đang mắc bệnh hiểm nghèo tự sát theo yêu cầu tự nguyện; người bị ép buộc đưa hối lộ nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác[6].
Quan điểm thứ tư, cho rằng loại trừ TNHS là những trường hợp người thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội nhưng được pháp luật xác định không phải chịu TNHS do (1) tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể; hoặc (2) thiếu yếu tố của tội phạm; hoặc (3) có căn cứ hợp pháp của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời, quan điểm này xác định 6 trường hợp không phải chịu TNHS được quy định trong Bộ luật hình sự thuộc chế định loại trừ TNHS, bao gồm: hành vi có tính chất nguy hiểm chưa đáng kể, sự kiện bất ngờ, chưa đủ tuổi chịu TNHS, tình trạng không có năng lực TNHS, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết[7].
Quan điểm thứ năm, cho rằng loại trừ TNHS là trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội, nhưng theo pháp luật họ không bị truy cứu TNHS”. Đồng thời, xác định ngoài 6 trường hợp như quan điểm thứ tư, quan điểm này còn xác định trường hợp miễn TNHShết thời hiệu truy cứu TNHS cũng được coi là tình tiết loại trừ TNHS[8]… Thậm chí, có quan điểm còn cho rằng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội bên cạnh các trường hợp như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ cũng là trường hợp loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi[9].
Về vấn đề này, qua nghiên cứu các trường hợp loại trừ TNHS theo các quan điểm khoa học nói trên, có thể phân chia các tình tiết loại trừ TNHS có thể chia thành 02 nhóm:
- Nhóm các trường hợp loại trừ TNHS do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nên không có tội phạm, do vậy vấn đề TNHS không được đặt ra, bao gồm: Sự kiện bất ngờ (trường hợp chủ thể không có lỗi, hành vi thực hiện trong trường hợp này thiếu yếu tố mặt chủ quan của tội phạm); Chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm (trường hợp thiếu yếu tố chủ thể của tội phạm); Trường hợp trong tình trạng không có năng lực TNHS (thiếu yếu tố chủ thể của tội phạm)[10]; Hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ không đáng kể (thiếu yếu tố mặt khách quan của tội phạm).[11] Chúng tôi cho rằng đây là nhóm trường hợp phản ánh không có cơ sở của TNHS.
- Nhóm các trường hợp loại trừ TNHS đủ hoặc có thể đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng có những “căn cứ” khác nên được coi không phải là tội phạm. Đây là nhóm trường hợp làm mất đi cơ sở của TNHS. Trong nhóm này, có thể chia thành 02 nhóm nhỏ hơn, cụ thể:
+ Nhóm các trường hợp loại trừ TNHS đủ hoặc có thể đủ yếu tố cấu tội phạm, nhưng có những “căn cứ” làm cho hành vi gây thiệt hại có tính hợp pháp, không còn tính trái pháp luật hình sự nên không coi là tội phạm, bao gồm: Phòng vệ chính đáng (căn cứ: vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức); Tình thế cấp thiết (căn cứ: vì muốn tránh nguy cơ thực tế gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức); Gây thiệt trong khi bắt giữ tội phạm[12] (căn cứ: để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm); Rủi ro trong hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ[13] (căn cứ: thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong khoa học công nghệ); Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (căn cứ: thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đảm bảo tính kỷ luật, sức mạnh trong quân đội). Những trường hợp thuộc nhóm này trên thực tế đã đủ hoặc có thể đủ yếu tố cấu thành tội phạm, như có những “căn cứ” được pháp luật hình sự quy định nhằm tạo điều kiện, khuyến khích công dân thực hiện vì những lợi ích chung cho nhà nước, xã hội, cơ quan, tổ chức, người khác hoặc của chính mình, những “căn cứ’ đó phù hợp với đòi hỏi của xã hội, có nghĩa rằng nó có tính hợp pháp, mất đi tính chất tội phạm của hành vi, làm cho hành vi không còn tính trái pháp luật hình sự. Do đó, để khuyến khích cá nhân, công dân thực hiện các trường hợp trên mà trong những giới hạn “cần thiết, cho phép”, pháp luật hình sự không coi là tội phạm và do đó không phải chịu TNHS.
+ Nhóm các trường hợp loại trừ TNHS đủ hoặc có thể đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng có những “căn cứ” không buộc người phạm tội phải chịu TNHS, đây là nhóm các trường hợp có những căn cứ loại trừ TNHS rất đa dạng, bao gồm: miễn TNHS (bao gồm: 12 trường hợp được miễn hoặc có thể được miễn TNHS: bao gồm: 6 trường hợp được quy định tại Điều 29, trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tại Điều 16; trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội theo khoản 2 Điều 91; Tội làm gián điệp theo khoản 4 Điều 110; Tội đưa hối lộ theo khoản 7 Điều 364; Tội môi giới hối lộ theo khoản 6 Điều 265, Tội không tố giác tội phạm theo khoản 2 Điều 390); hết thời hiệu truy cứu TNHS (hết khoảng thời hạn truy cứu TNHS do BLHS quy định tại Điều 27); gây thiệt hại cho xã hội trong tình trạng say hoặc dùng chất kích thích mạnh khác như do bị ép buộc dẫn đến mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi; người bị ép buộc đưa hối lộ nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác (các trường hợp đặc biệt gây thiệt hại do bị cưỡng bức, cưỡng ép về tinh thần); hành vi phạm tội thái quá của người thực hành trong đồng phạm; giúp người đã thành niên đang mắc bệnh hiểm nghèo tự sát theo yêu cầu tự nguyện... Những “căn cứ” thuộc nhóm các trường hợp này có thể là những căn cứ xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước, xét thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS nhưng vẫn bảo đảm được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, vẫn bảo đảm được yêu cầu giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Hoặc là những trường hợp gây thiệt hại do bị cưỡng bức, cưỡng ép về tinh thần, họ có thể có sự nhận thức về mặt ý chí, nhưng sự điều khiển về mặt lý do họ bị loại trừ hoàn toàn do bị “cưỡng bức”, do đó vấn đề TNHS đặt ra đối với họ không cần thiết.
Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, chế định các trường hợp loại trừ TNHS được quy định trong pháp luật hình sự của nhiều quốc gia, tuy nhiên, phạm vi các tình tiết được coi là tình tiết loài trừ TNHS trong pháp luật hình sự của mỗi quốc gia có sự khác nhau nhất định. BLHS năm 1997 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xác định các trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: sự kiện bất ngờ (Điều 16), hành vi nguy hiểm do người mắc bệnh tâm thần thực hiện (Điều 18), phòng vệ chính đáng (Điều 20), tình thế cấp thiết (Điều 21) thuộc chương tội phạm và TNHS[14]. BLHS của Cộng hòa Liên bang Đức có quy định về phòng vệ khẩn cấp và tình trạng khẩn cấp tại mục thứ tư[15]. BLHS cộng hòa Pháp[16] xác định các trường hợp như: phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, người mắc bệnh rối loạn tâm thần hoặc rối loạn thần kinh khiến không nhận thức hoặc không kiểm soát được hành vi của mình, hành động dưới sự chi phối của một sức mạnh hoặc một sự cưỡng bức, do lầm tưởng mình có quyền thực hiện một cách hợp pháp, thực hiện hành vi do lệnh của nhà chức trách hợp pháp là các trường hợp loại trừ TNHS (miễn TNHS)[17]... Bộ luật hình sự các quốc gia khi quy định về các trường hợp loại trừ TNHS có xu hướng ngày càng phát triển, tức là ngày càng được bổ sung thêm cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia[18], ví dụ, Liên bang Nga, bên cạnh các tình tiết loại trừ có tính chất phổ biến như phòng vệ cấp thiết, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ trong BLHS năm 1960, đến BLHS năm 1997 đã bổ sung một loại các tình tiết loại trừ TNHS mới và tách riêng thành 01 chương các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi như gây thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội, cưỡng bức thân thể hoặc tinh thần, sự rủi ro chính đáng, thi hành mệnh lệnh hoặc chỉ thị.
Xét dưới góc độ pháp luật thực định, Bộ luật hình sự năm 2015 đã chính thức quy định 07 trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: Sự kiện bất ngờ; tình trạng không có năng lực TNHS; Phòng vệ chính đáng; Tình thế cấp thiết; Gây thiệt hại trong khi bắt giữ tội phạm; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ và Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Điều này có ý nghĩa dưới một số phương diện sau: (i) Đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới; Tăng cường tính minh bạch của BLHS; (iii) Thể hiện rõ chính sách của Đảng và nhà nước trong khuyến khích, động viên người dân tự bảo vệ mình hoặc tham gia ngăn chặn tội phạm, động viên mọi người tích cực sáng tạo, thử nghiệm các tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống con người[19]; góp phần vào sự nhận thức thống nhất về các trường hợp loại trừ TNHS trong BLHS.
Theo quy định BLHS năm 2015, các trường hợp loại trừ TNHS sẽ bao gồm 02 nhóm: Nhóm các trường hợp loại trừ TNHS do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nên không có tội phạm (nhóm các trường hợp không có cơ sở của TNHS) do vậy vấn đề TNHS không được đặt ra, bao gồm: Sự kiện bất ngờ; tình trạng không có năng lực TNHS và Nhóm các trường hợp loại trừ TNHS đủ hoặc có thể đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng có những “căn cứ” làm cho hành vi gây thiệt hại có tính hợp pháp, không còn tính trái pháp luật hình sự nên không coi là tội phạm (nhóm các trường hợp làm mất cơ sở của TNHS) bao gồm: Phòng vệ chính đáng; Tình thế cấp thiết; Gây thiệt hại trong khi bắt giữ tội phạm; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ và Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên.
Xét dưới góc độ ngôn ngữ học, loại trừ được giải thích là “làm cho mất đi, hết đi cái xấu, cái đối lập[20], còn TNHS được giải thích là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình[21]. TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ học, có thể hiểu loại trừ TNHS là làm mất đi hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện hành vi phạm tội. Các trường hợp loại trừ TNHS đó là các trường hợp làm mất đi hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, từ tất cả các phương diện nghiên cứu trên, chúng tôi cho rằng các trường hợp loại trừ TNHS là những trường hợp được quy định trong BLHS phản ánh không có hoặc làm mất cơ sở của TNHS và người có hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp này sẽ không phải chịu TNHS. Đồng thời, chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm về cách phân loại về các trường hợp loại trừ TNHS bao gồm các trường hợp phản ánh không có cơ sở của TNHS (gồm: Sự kiện bất ngờ, tình trạng không có năng lực TNHS) và trường hợp làm mất cơ sở của TNHS (bao gồm: Phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội, Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ và thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên[22]).
2. Về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
- Sự kiện bất ngờ
Điều 20 BLHS năm 2015 khẳng định: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu TNHS.
So với BLHS năm 1999, quy định về sự kiện bất ngờ trong BLHS năm 2015 không có sự thay đổi về bản chất pháp lý, mà chỉ là sự sửa đổi, bổ sung về mặt kỹ thuật lập pháp theo hướng quy định trực tiếp một người thực hiện hành vi được coi là sự kiện bất ngờ và hậu quả pháp lý của nó. Theo đó, sự kiện bất ngờ là trường hợp gây ra hậu quả thiệt hại cho xã hội nhưng người gây có hành vi gây ra hậu quả thiệt hại đó không có lỗi vì họ không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi gây hậu quả thiệt hại. Bản chất pháp lý của trường hợp sự kiện bất ngờ là người thực hiện hành vi không có lỗi do họ không tự lựa chọn thực hiện hành vi gây thiệt hại. Họ đã không thấy trước được tính chất (hậu quả) nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Hoàn cảnh khách quan không cho phép họ có thể thấy trước hậu quả của hành vi. Họ cũng không có nghĩa vụ (bị buộc) phải thấy trước việc gây ra hậu quả đó[23]. Như vậy, đặc điểm có lỗi - cơ sở để xem xét một hành vi có là tội phạm là không, và có cần thiết áp dụng các biện pháp tác động về mặt pháp lý hình sự không đã không được thỏa mãn.
Như vậy, trong trường hợp sự kiện bất ngờ, việc chủ thể đã không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình đã gây ra là do khách quan. Đây chính là điểm khác biệt so với các trường hợp như sự kiện bất khả kháng, tình trạng không thể khắc phục được hoặc đối với trường hợp lỗi vô ý vì cẩu thả.
- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Điều 21 BLHS năm 2015 khẳng định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS.
So với BLHS năm 1999, quy định về tình trạng không có năng lực TNHS trong tại điều 21 BLHS năm 2015 có sự thay đổi về mặt kỹ thuật theo hướng bỏ quy định về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tại điều luật mà quy định thống nhất về việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh tại Điều 49 BLHS năm 2015, theo đó, người thực hiện nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 của BLHS năm 2015, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh.
Theo quy định của điều luật, tình trạng không có năng lực TNHS có thể được hiểu là trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Như vậy, có 02 dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS, đó là dấu hiệu y học (mắc bệnh) – điều kiện cần, dấu hiệu tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển) – điều kiện đủ. Cả 02 dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, dấu hiệu này là tiền đề của dấu hiệu kia và ngược lại, một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.
Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình mới được coi là không có năng lực TNHS. Có nghĩa rằng họ phải thỏa mãn đồng thời 02 dấu hiệu trên, trong đó, dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân là dấu hiệu tâm lý có vai trò là kết quả nhưng không có nghĩa mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển. Năng lực này có mất hay không, không những phụ thuộc vào loại bệnh mà còn phụ thuộc vào mức độ bệnh và vào tính chất của hành vi nguy hiểm nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện.[24]
- Phòng vệ chính đáng
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi thoả mãn các dấu hiệu sau: (i) Có hành vi tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tổ chức, quyền và lợi ích chính đánh của người phòng vệ hoặc của người khác (cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng) và (ii) Hành vi phòng vệ gây thiệt hại cho người xâm phạm là cần thiết (nội dung và phạm vi của phòng vệ chính đáng);
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS theo quy định của Bộ luật này. Đây là trường hợp người phòng vệ do đánh giá sai tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm, do đó, “…Người phòng vệ đã dùng những phương tiện và phương pháp gây ra thiệt hại quá đáng cho người xâm hại mà tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại cũng như hoàn cảnh cụ thể chưa đòi hỏi phải dùng các phương tiện và phương pháp đó[25].
Người phòng vệ trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS do lỗi vượt quá của mình. Tuy nhiên, TNHS của họ được giảm nhẹ hơn so với các trường hợp bình thường. Mức độ TNHS được giảm nhẹ nhiều hay ít phụ thuộc vào mức độ vượt quá giới hạn phòng vệ và các trường hợp giảm nhẹ khác.
- Tình thế cấp thiết
Tình thế cấp thiết là một trong những trường hợp loại trừ TNHS, đó là tình thế của người đứng trước sự đe dọa đến một lợi ích được pháp luật bảo vệ, và để bảo vệ lợi ích này, người đó không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại cho một lợi ích khác được pháp luật bảo vệ.
Để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu TNHS thì phải có đầy đủ các điều kiện sau đây: (i) Phải có sự đe dọa hiện hữu và thực tế xâm phạm đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ (tức là lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của bản thân người thực hiện hành vi hay của người khác); (ii) Hành vi gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm; (iii) Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình trạng một người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là gây thiệt hại bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở để hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Cũng giống như vượt quá yêu cầu của phòng vệ chính đáng, người có hành vi gây thiệt hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì cũng phải chịu TNHS. Khoản 2 Điều 24 khẳng định: trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu TNHS. Mặc dù, vượt quá tình thế cấp thiết phải chịu TNHS nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ và vì hoàn cảnh phạm tội. Thể hiện đầy đủ, Khoản 1 Điều 51 BLHS có quy định một cách cụ thể, rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là một trong những tình tiết để giảm nhẹ TNHS. Đây cũng là tình tiết giảm nhẹ TNHS và khả năng của Toà án khi quyết định hình phạt có thể coi là tình tiết giảm nhẹ. Đó là cơ sở để giảm nhẹ hình phạt trong phạm vi của khung luật tương ứng.
- Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ TNHS mới được bổ sung, ghi nhận trong BLHS, đó là hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ. Hành vi bắt giữ tội phạm trong trường hợp này không phải là tội phạm.Việc ghi nhận, bổ sung trường hợp này là trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, một mặt, nó phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải dựa vào sức mạnh của cả hệ thống chính trị, huy động toàn thể xã hội chung sức, chung lòng phát huy tính tích cực của công dân trong cuộc đấu tranh này[26]. Mặt khác, khuyến khích, phát huy tinh thần chủ động đấu tranh ngăn chặn hành vi phạm tội và bắt giữ kịp thời những người đang lẩn trốn sự trừng trị của pháp luật, cũng như là "minh chứng về ý thức pháp luật và tính tích cực đối với trách nhiệm công dân của người bắt giữ..."[27].
Để được coi là gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ TNHS, chúng tôi cho rằng hành vi bắt giữ phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) Hành vi bắt giữ phải thuộc về các chủ thể có thẩm quyền bắt giữ người phạm tội; (ii) Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là biện pháp cuối cùng, không còn cách nào khác để bắt giữ người phạm tội; (iii) Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là cần thiết.
Vượt quá yêu cầu của gây thiệt hại trong bắt giữ tội phạm đó là trường hợp người có hành vi bắt giữ tội phạm đã gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết và người gây thiệt hại trong trường hợp này phải chịu TNHS.
- Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS lần đầu tiên được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi của một người đã gây thiệt hại khi tiến hành, thực hiện việc nghiên cứu, thủ nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa. Hành vi gây thiệt trong trường hợp nói trên không phải là tội phạm. Việc quy định, bổ sung trường hợp này là trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới công nghệ, tạo động lực, động viên sự sáng tạo của các nhà khoa học, nhà sản xuất. Mặt khác, tạo hành lang pháp lý an toàn để người dân an tâm tham gia vào các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất “đột phá” vì lợi ích chung[28].
Để coi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS, chúng tôi cho rằng hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) Hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải nhằm mục đích đem lại lợi ích cho xã hội; (ii) Lĩnh vực của hành vi gây thiệt hại chỉ giới hạn trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; (iii) Người gây ra thiệt hại đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa[29]. Trong đó, điều kiện thứ ba là điều kiện quan trọng nhất. Cũng chính vì vậy mà đoạn 2 Điều 25 BLHS năm 2015 khẳng định người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu TNHS.
- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên
Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ TNHS chính thức được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó. Hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này không phải chịu TNHS. Việc quy định, bổ sung trường hợp thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ TNHS sẽ góp phần đảm bảo tuân thủ tuyệt đối, triệt để nguyên tắc "cấp dưới phải phục tùng cấp trên" đối với mệnh lệnh, chỉ thị hay quyết định trong lực lượng vũ trang nhân dân[30], đảm bảo tính kỷ luật, sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân.
Để coi thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ TNHS, khi hành vi gây thiệt hại khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) mệnh lệnh mà người có hành vi gây thiệt hại thi hành phải là mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (người có thẩm quyền) thuộc lực lượng vũ trang nhân dân[31]; (ii) mục đích của việc thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên thuộc lực lượng vũ trang phải nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; (iii) người có hành vi gây thiệt hại đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó; (iv) việc thi hành mệnh lệnh này không thuộc trường hợp phạm tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 421), tội chống loài người do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 422), tội phạm chiến tranh do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 423). Như vậy, hành vi gây thiệt hại thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên thỏa mãn các điều kiện nói trên sẽ được coi là trường hợp loại trừ TNHS và người thực hiện hành vi gây thiệt hại này sẽ không phải chịu TNHS. Tuy nhiên, đối với người ra mệnh lệnh nói trên sẽ phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật.
3. Một số kết luận
Thay vì quy định mang tính chất tản mạn như trong BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã chính thức quy định các trường hợp loại trừ TNHS thành một chương thống nhất với 07 trường hợp cụ thể. Điều này đã góp phần vào việc nhận thức thống nhất về phạm vi các trường hợp được coi là trường hợp loại trừ TNHS. Tuy nhiên, sẽ là khoa học, hợp lý hơn nếu BLHS năm 2015 đưa ra được khái niệm pháp lý minh định được nội hàm, bản chất của các trường hợp loại trừ TNHS. Đồng thời, nên sử dụng thống nhất thuật ngữ quy định về hậu quả pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS là không phải chịu TNHS thay vì có trường hợp quy định không phải chịu TNHS (Sự kiện bất ngờ, tình trạng không có năng lực TNHS, Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên), có trường hợp quy định không phải là tội phạm (04 trường hợp còn lại). Bởi lẽ, suy cho cùng dù có thuộc trường hợp phản ánh không có cơ sở của TNHS (không phải là tội phạm) hoặc trường hợp làm mất cơ sở của TNHS (đã hoặc có thể là tội phạm, nhưng được coi không phải là tội phạm) thì đều không đặt ra vấn đề TNHS đối với người có hành vi gây thiệt hại, họ sẽ không phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp được coi là loại trừ TNHS./.
 
Ths. Ngô Thanh Xuyên
 
[1] Nội dung Chỉ thị nêu trên đã hướng dẫn cụ thể các hành vi được xác định là phòng vệ chính đáng. Đến BLHS năm 1985, phòng vệ chính đáng đã được quy định chính thức trong BLHS năm 1985
[2] Sửa đổi qua các năm 1989, 1991, 1992 và 1997.
[3] Gây thiệt hại trong khi bắt giữ tội phạm; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ và Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
[4] GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, trang 44
[5] GS.TSKH Lê Văn Cảm, (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung – sách chuyên khảo sau đại học), nxb Đại học quốc gia Hà Nội, trang 591.
[6] TS. Trịnh Tiến Việt, (2013), Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,  tập 27, số 4 (15 – 29)
[7] TS. Nguyễn Tuyết Mai, Quy định của pháp luật Việt Nam về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự và một số khuyến nghị hoàn thiện, Tài liệu Hội thảo “Kinh nghiệm của Ô-Trây-lia về việc hoàn thiện pháp luật hình sự và phương hướng sửa đổi Bộ luật hình sự, 6/2013, trang 41.
[8] Ths Đinh Văn Quế (1998), Những trường hợp loại trừ TNHS trong luật hình sự Việt Nam, NXB chính trị quốc gia Hà Nội
[9] TS. Nguyễn Ngọc Thế (2013), Tội phạm, cấu thành tội phạm – Những vấn đề lý luận và thực tiễn (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, trang 153 – 180.
[10] Xem thêm GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư pháp, trang 44,45,46.
[11] Xem thêm GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 1, nxb Công an nhân dân, tại trang 65 có khẳng định: “Tội phạm là những hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể, còn những hành vi tuy có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng ở mức độ không đáng kể là các vi phạm pháp luật khác”.
[12] Hoặc sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại trong khi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
[13] Hoặc sự rủi ro (mạo hiểm) chấp nhận được (có căn cứ) về kinh tế hoặc nghề nghiệp
[14] Đinh Bích Hà, (2007), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư pháp, trang 43, 44, 45
[15] Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Cộng hòa liên bang Đức, Nxb Công an nhân dân, trang 32
[16] Được sửa đổi, bổ sung bằng Luật số 92-683 ngày 23/7/1992
[17] Xem thêm, Hoàng Quốc Việt (2015), Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Số Chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, trang 94
[18] Hoàng Quốc Việt…tlđd, trang 93
[19] Bộ Tư pháp, (2016), Tài liệu hội nghị Quán triệt, phổ biên BLHS năm 2015 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự, Tháng 4/2016, trang16
[20] Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, trang 574
[21] Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Nxb Tư pháp, trang 801
[22] Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Nxb Tư pháp, trang 769
[23] TS. Nguyễn Tuyết Mai, tlđd
[24] GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập 1 – chủ biên), Nxb Công an nhân dân, trang 124.
[25] Chỉ thị 07/TAND ngày 22/12/1983 của Tòa án nhân dân tối cao.
[26] Hoàng Quốc Việt (2015), Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Số Chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, trang 87
[27] Xem: GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr.579.
[28] Bộ Tư pháp (2016), Tài liệu hội nghị Quán triệt, phổ biên BLHS năm 2015 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự, Tháng 4/2016, trang11
[29] Xem thêm GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr.566
[30] Ví dụ: Điều 29 Luật Công an nhân dân năm 2005 quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân: ...2. Nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệnh Công an nhân dân, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; Điều 26 Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 quy định về nghĩa vụ của sĩ quan: ...3. Tuyệt đối phục tùng tổ chức, phục tùng chỉ huy; nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia.
[31] Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân và Dân quân tự vệ. Trong đó, lực lượng Quân đội bao gồm Lục quân, Hải quân, Không quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, đặt dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng và chịu sự điều động của Bộ Tổng tham mưu. Lực lượng Công an bao gồm An ninh và Cảnh sát, chịu sự quản lý của Bộ Công an. Riêng lực lượng Dân quân - Tự vệ là lực lượng quản lý hỗn hợp của Bộ Quốc phòng và cơ quan hành chính địa phương.