Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với các quy định về hòa giải trong Quốc triều hình luật

27/09/2016
1. Khát quát các quy định về hòa giải trong Quốc triều hình luật
Pháp luật phong kiến Việt Nam đã trải qua quá trình hình thành và phát triển từ nhà nước đầu tiên của Việt Nam là nhà nước Văn Lang -  Âu Lạc, đến thời kì đấu tranh chống đồng hóa của phong kiến Trung quốc (179 TCN - 938) đến các nhà nước phong kiến Đại Việt (từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), bao gồm các nhà nước thời kì Đinh - Tiền Lê, các triều Đại Lý - Trần - Hồ, nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền thời Lê Sơ (thế kỉ XV - thế kỉ XVI) đến nhà nước trong thời kì nội chiến phân liệt (thế kỉ XVI - thế kỉ XVIII)([1]) và cuối cùng là nhà nước trong nền quân chủ chuyên chế triều Nguyễn (1802 - 1884) đã đạt được những thành tựu phát triển rực rỡ và đã để lại cho chúng ta một hệ thống pháp luật khá đồ sộ.
Trong đó, đặc biệt là hệ thống pháp luật thời kì Hậu Lê từ thế XV đến thế kỉ XVIII, hệ thống pháp luật thời kì này không những đồ sộ về khối lượng, mà còn phong phú về hình thức văn bản và đa đạng về lĩnh vực điều chỉnh. Những thành tựu trong pháp luật thời kì này, nhất là thời kì Lê Sơ mà đỉnh cao là thời kì vua Lê Thánh Tông đã trở thành mẫu mực, mà các triều đại trước đó chưa hề đạt tới, và là cơ sở để nhiều triều đại sau này làm theo. Các luật lệ nhà Lê được ban hành trong thế kỉ XV dưới các đời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và Lê Thánh Tông (1428 - 1497) không những thể hiện được sự phong phú, đa dạng về các vấn đề liên quan mà còn thể hiện các điểm đặc sắc của các chế định Việt Nam. So với các bộ luật Trung Quốc, như bộ luật nhà Đường mà có ảnh hưởng ở Phương Đông rất lớn, thì nền pháp chế triều Hậu Lê còn tiến bộ hơn cả về mặt kỹ thuật lập pháp([2]). Đồng thời, pháp luật triều Hậu Lê còn là một phản ánh trung thực xã hội Việt Nam, vì nó phù hợp với các điều kiện xã hội và tôn giáo thời kì đó, các bộ luật thời đó có ảnh hưởng rất lớn đối với dân tộc. Ngày nay, một số lớn các tục lệ nước ta về hôn nhân, gia đình… vẫn còn phản chiếu các điều khoản đó.
Pháp luật phong kiến Việt Nam thời kì Hậu Lê đã đạt được những thành tựu to lớn, mà đỉnh cao của nó là dưới triều vua Lê Thánh Tông, đã bao gồm khá đầy đủ các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong đời sống xã hội đương thời từ hình sự đến dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng, thậm chí cả các vấn đề liên quan đến luật hành chính. Trong đó có các quy định về giải quyết mâu thuẫn, các xung đột xã hội, đem lại cho nhân dân cuộc sống hòa thuận, ấm no, hạnh phúc, tinh thần đoàn kết được phát huy cao độ, đó là các quy định về thể chế hòa giải.
Đặc biệt, trong các thành tựu mà pháp luật phong kiến Việt Nam thời kì Hậu Lê đạt được là về việc pháp điển hóa các văn bản pháp luật, đã để lại cho thế giới và Việt Nam một bộ luật cổ khá toàn diện về mọi mặt đó là Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức, đó là bộ luật xưa nhất còn lưu giữ đầy đủ cho đến ngày nay. Quốc triều hình luật - là bộ luật được coi là quan trọng nhất và chính thống nhất của triều Lê và trong lịch sử pháp luật Việt Nam, nó được đánh giá là "Một thành tựu có giá trị đặc biệt, nó không chỉ là đỉnh cao so với thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó, mà còn cả với bộ luật được biên soạn vào đầu thế kỉ XIX: Hoàng Việt Luật Lệ do Gia Long ban hành năm 1812"([3])
Quốc triều hình luật được khởi soạn từ vua Lê Thái Tổ, rồi được bổ sung qua các đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và được hoàn thiện vào niên hiệu Hồng Đức thời kì Lê Thánh Tông. Xét về khía cạnh đối tượng tác động, Quốc triều hình luật là một bộ luật tổng hợp điều chỉnh tất cả những quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, đó là những quan hệ xã hội căn bản nhất, rường cột nhất tạo nên chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của chế độ Nhà Lê. Với Quốc triều hình luật, Lê Thánh Tông đã xác lập được một trật tự pháp luật cần thiết và đầy hiệu lực. Trật tự pháp luật đó vừa để củng cố và bảo vệ trật tự nhà nước, trật tự xã hội của chế độ phong kiến tập quyền, vừa mở đường an toàn cho sự phát triển lâu bền của chế độ tập quyền ấy. Đánh giá Quốc triều hình luật, sử gia Phan Huy Chú có nhận định: "Hình luật Hồng Đức, các đời đều tuân theo, dùng làm phép sẵn, dù các điều mục nhỏ nhặt có thêm bớt, song đại cương chế độ bao giờ cũng vẫn theo đó, thực là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân"([4])
Với 722 điều luật nằm trong 13 chương với các tên chương như Danh lệ, Cấm vệ, Vi chế, Quân chính, Hộ hôn, Điền sản, Thông gian, Đạo tặc, Đấu trọng, Trá ngụy, Tạp luật, Bộ vong, Đoán ngục, Quốc triều hình luật bao gồm những quy định về hình sự, dân sự, đất đai, hôn nhân gia đình, về tố tụng và thậm chí cả những quy định về luật hành chính. Đồng thời, Quốc triều hình luật cũng đã ghi nhận được các quy định về giải quyết tranh chấp, xung đột xã hội đó là các quy định về thế chế hòa giải, mặc dù sự ghi nhận này chỉ là sơ khai, và gián tiếp các một số quy định có liên quan, nhưng chính sự ghi nhận đó đã phản ánh được nhu cầu cần thiết của xã hội phong kiến Việt Nam về việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn xã hội, cũng như đã thể hiện được sự quan tâm đến đời sống của nhân dân lao động của các triều vua nhà Lê trong chính sách cai trị của mình.
Các quy định về thể chế hòa giải mặc dù đã được ghi nhận trong Quốc triều hình luật, tuy nhiên, qua khảo cứu nhận thấy các quy định được ghi nhận đó chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận thẩm quyền hòa giải ở cấp quan xã; các trường hợp không được hòa giải và thường đi kèm với các biện pháp cưỡng chế trong các chế tài hình sự, chưa thể hiện được các nội dung cơ bản về thể chế hòa giải trong pháp luật hiện nay, cụ thể như sau:
Điều 672 quy định về thẩm quyền tố tụng của các cấp chính quyền như sau: "Chư lộ huyện nhân hữu tranh tụng giả, tối tiểu sự tựu quan xã, tiểu sự tựu quan lộ, trung sự tựu phủ quan, khám bình như phát; đại sự phó kinh. Tức xã quan bất vi lý, tắc cáo huyện quan; huyện quan bất vi lý, tắc cáo quan lộ; lộ quan bất vi lý, nhiên hậu phó kinh thân tấu; vi giả dĩ trượng biếm luận. Cáo mưu phản bạn nghịch sự, bất tại thử luật"([5]) (Những nhân dân trong lộ, trong huyện kiện nhau, việc rất nhỏ thì kiện ở xã quan; việc nhỏ thì kiện ở lộ quan; việc trung bình thì kiện ở quan phủ; các quan kể trên phải xét xử cho công bằng đúng pháp luật; còn việc lớn thì phải đến kinh; Nếu việc gì mà xã quan không chịu xử đoán, thì được thưa đến quan huyện; quan huyện không chịu xử đoán, thì được thưa đến quan lộ; quan lộ không chịu xử đoán, thì mới đến kinh tâu bầy; Nếu trái luật này, thì phải tội trượng hoặc tội biếm. Cáo tố những việc mưu phản và bạn nghịch, thì không theo luật này)
Cụ thể như sau:
- Ở cấp xã, xã quan xử những vụ tranh chấp nhỏ nhặt trong làng xã mà thường là nhằm hòa giải giữa các đương sự([6]). Trong chế độ phong kiến, ở các làng xã thường ngày có rất nhiều những vụ tranh chấp nhỏ nhặt. Do đó, các nhà làm luật triều Lê đã rất chú trọng đến việc giải quyết, hòa giải các vụ việc này ở ngay cấp xã thì giảm bớt kiện tụng sinh ra, giảm các chi phí trong tố tụng, loại bỏ gánh nặng không cần thiết cho các quan chức cấp trên. Quy định này trong Quốc triều hình luật có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
- Ở cấp huyện, quan huyện xét xử lại những vụ xã quan đã xử nhưng không hợp lẽ và người thưa kiện lại tiếp tục kiện lên cấp huyện.
- Ở cấp lộ và phủ, quan lộ xét xử những vụ việc nhỏ và xét xử lại những vụ mà quan huyện xét xử không hợp lẽ, quan phủ xét xử những vụ việc trung bình.
- Cấp triều đình xét xử những vụ án lớn và xử lại những vụ án mà quan lộ, phủ xử không hợp lẽ.
Sau này, dưới triều vua Lê Thánh Tông, quan xã được thay thế bằng xã trưởng; nhưng các xã trưởng, ngoài các nhiệm vụ mang tính chất hành chính như lập sổ đinh, sổ điền, thu thuế, vẫn có thẩm quyền thỏa xử những vụ tranh tụng nhỏ nhặt trong làng xóm như một thẩm phán hòa giải([7]). Như vậy, pháp luật thời kì này đã ghi nhận khá rõ ràng về thẩm quyền tố tụng trong Quốc triều hình luật, qua đó đã ghi nhận về thẩm quyền hòa giải các vụ tranh chấp, vụ kiện nhỏ trong làng xã thuộc về các xã quan, coi cấp xã là một cấp hòa giải, góp phần giải quyết mâu thuẫn cũng những các tranh chấp ngay tại cộng đồng dân cư. Các vụ tranh chấp nhỏ nhặt, hay còn goi là các tạp tụng bao gồm các việc về hôn nhân, tranh chấp ruộng đất, các vụ ẩu đả nhỏ… sẽ được hòa giải ở các xã trưởng, nếu xã trưởng xét xử không hợp lý mà người thưa kiện không phục tình mới dùng quyền kháng cáo của mình để kiện lên cấp cao hơn. Chính quy định, góp phần hạn chế được việc kiện tụng, cũng như góp phần xây dựng được tình đoàn kết hàng xóm, láng giềng.
Bên cạnh việc ghi nhận về thẩm quyền hòa giải trong thể chế hòa giải, Quốc triều hình luật còn ghi nhận một số trường hợp không được hòa giải cụ thể như sau: Điều 493 Quốc triều hình luật có ghi nhận: "Chư cự ẩu quan sai giám giả, dĩ đồ luận; chiết thương dĩ lưu luận; cự ẩu câu tụng trưng thuế giảm giá, biếm tam tư; chiết thương dĩ đồ luận; trí tử giả giai trảm; thường mệnh như luật; kỳ tiền tạ, quan sai nhất bách quan; câu trưng ngũ thập quán; khinh giả luận khảm; mạ giả biếm nhất tư; tiền tạ như luật. Sai câu giám tư hòa giải trượng bát thập, kỳ tạ tiền nhập quan; tức sai câu giả tiên hữu quá thất trí ẩu mạ giả biệt luận"([8]) (Chống cự và đánh người của quan sai đi việc công, cùng người quan cho trông coi, thì phải tội đồ; đánh bị thương què gẫy thì phải tội lưu; chống cự hay đánh những công sai đến bắt người hay thu thuế, thì phải biếm ba tư; đánh bị thương thì phải tội đồ; đánh chết thì phải tội chém; và bắt đền mạng như luật; tiền tạ thì sai quan (đi việc công) 100 quan tiền, sai dịch đi bắt người, hay đi thu thuế, 50 quan; tội nhẹ thì có thể bớt đi; lăng mạ thì phải biếm một tư và nộp tiền tạ như luật. Các người công sai mà lại hòa giải riêng với người phạm tội đánh chửi mình thì phải phạt 80 trượng; tiền tạ phải sung công; nếu vì người công sai có lỗi trước mới sẩy ra việc đánh chửi ấy, thì lại xử khác.). Hay, Điều 718 Quốc triều hình luật có quy định: "Chư cáo cử công sự bất đắc tư tự hòa hưu, hình ngục quan thính lòng giả, xuy ngũ thập biếm nhất tư; tức hiệp tư thụ tải vật giả, dĩ uổng pháp luật"([9])(Những người phát giác việc công, không được hòa hưu riêng([10]) với nhau (với bị cáo). Nếu hình quan và ngục nghe theo sự hòa hưu ấy, thì phải phạt 50 roi, biếm một tư. Nếu hình quan và ngục quan vì tư tâm (tình riêng) hay nhận vật hối lộ về việc hòa hưu này thì phải ghép vào tội uổng pháp)
Như vậy, qua khảo cứu các quy định của Quốc triều hình luật về thể chế hòa giải, nhận thấy Quốc triều hình luật đã ghi nhận được các trường hợp không được hòa giải cụ thể bao gồm các trường hợp sau:
+ Thứ nhất: Người công sai (người đi làm việc công, việc nhà nước) không được hòa giải riêng với người phạm tội đánh chửi mình, nếu mà làm trái quy định này sẽ bị xử phạt 80 trượng; tiền tạ phải xung công.
+ Thứ hai: Những người phát giác việc công (đó người tố cáo là hình quan và ngục quan) không được hòa giải riêng với bị cáo; nếu làm trái quy định này thì bị xử phạt 50 roi, biếm một tư.
Các trường hợp không được hòa giải trên có liên quan chặt chẽ với việc công, việc nhà nước, liên quan đến những người thực hiện việc công đó. Qua đó, chứng tỏ sự quan trọng của các công việc thuộc về nhà nước, thuộc về công quyền trong pháp thời kỳ này, nghiêm cấm mọi trường hợp hòa giải giữa những người làm việc công với người đã phạm tội đánh chửi chính người làm việc công đó và nghiêm cấm việc hòa giải giữa người tố giác việc công với bị cáo. Quy định cũng nhằm làm cho việc công và việc thực hiện việc công của nhà nước phong kiến triều Lê được tôn trọng và thực hiện có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu trong chính sách cai trị của mình.
Mặc dù còn tồn tại những hạn chế nhất định, tuy nhiên các nhà làm luật triều Lê đã thể chế hóa được các quy định về giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, các xung đột xã hội đó là các quy định về thể chế hòa giải trong một văn bản luật có giá trị pháp lý cao thời kì đó, cũng như trong một trong những bộ luật nổi tiếng của hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam là Quốc triều hình luật. Sự ghi nhận này là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh chính trị - xã hội khi đó, cũng như phù hợp với xu hướng phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam triều Lê. Thể chế hòa giải được hình thành và ghi nhận trong Quốc triều hình luật xuất phát từ chính cở sở kinh tế, xã hội của nhà Lê, cũng như xuất phát từ chính yêu cầu giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp của cuộc sống và từ sự đoàn kết trong nhân dân, đồng thời mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Gắn liền với sự phát triển của lịch sử Việt Nam nói chung, sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam nói riêng, quá trình hình thành và phát triển của thể chế hòa giải như một dòng chảy liên tục, mỗi thời đại, mỗi thể chế chính trị đã thừa kế và không ngừng hoàn thiện đáp ứng với yêu cầu của cuộc sống và để lại những dấu ấn của mình trên dòng chảy đó([11]).
Đồng thời, khi nghiên cứu về toàn bộ hệ thống pháp luật của các triều đại phong kiến Việt Nam nói chung, cũng như hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam thời kì Hậu Lê nói riêng, nhận thấy tư tưởng pháp trị, một tư tưởng triết học có giá trị rất lớn của Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng rất lớn, ảnh hưởng không những trong tư tưởng lập pháp của các nhà lập pháp triều Lê, đến chính sách cai trị được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật, mà còn ảnh hưởng đến cách thức ghi nhận, thậm chí cả những quy định cụ thể các vấn đề của pháp luật phong kiến ghi nhận, trong đó các quy định của thế chế hòa giải. Thể chế hòa giải trong Quốc triều hình luật, một thành tựu quan trọng nhất của công tác pháp điển hóa của hệ thống pháp luật triều Hậu Lê cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các quy định về thể chế hòa giải trong Quốc triều hình luật cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng pháp trị có nguồn gốc từ Trung quốc.
2. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với các quy định về hòa giải trong Quốc triều hình luật
Một trong những nội dung cơ bản và quan trọng nhất của tư tưởng Pháp trị của Pháp gia được các đại biểu của Pháp gia từ Quản Trọng, Tử Sản, Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng và cuối cùng là Hàn Phi Tử xây dựng, phát triển và hoàn thiện đó là dùng pháp luật, đề cao pháp luật làm một công cụ trị nước, trong đó một trong những hình thức của việc đề cao pháp luật, cũng như đảm bảo cho pháp luật được thực thi trên thực tế, đảm bảo tính nghiêm minh và công khai của pháp luật đó là việc sử dụng hình phạt nặng để trừng trị những người không chấp hành pháp luật, làm trái với các quy định mà pháp luật đã đề ra. Cũng trong Hàn Phi Tử, thiên "Nội trữ thượng - Thất thuật", Hàn Phi Tử đã đưa ra thuật: hình phạt chắc chắn, Ông đã từng khẳng định: "Dùng hình phạt trị nặng những tội nhẹ thì tội nhẹ không phạm, tội nặng không xẩy ra. Nhưng thế gọi là dùng hình phạt để loại trừ hình phạt……đó là cái đạo của việc trị nước"([12]). Điều này đã được thể hiện rất rõ trong các bộ luật cổ của Trung Quốc. Các nhà nước phong kiến Việt Nam quan các triều đại khác nhau khi thực hiện đường lối cai trị của mình để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, qua đó đề cao vai trò của pháp luật cũng dùng rất nhiều loại hình phạt trong hệ thống pháp luật với các mức phạt khác nhau để trừng trị những người có hành vi vi phạm pháp luật và pháp luật nhà Hậu Lê cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các triều vua nhà Hậu Lê, để thiết lập trật tự phong kiến trong gia đình và xã hội, để hoàn thiện bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, ngoài việc chấn chỉnh phong tục tập quán, giáo hóa lễ nghi và đạo đức cho dân chúng vẫn luôn chú trọng sử dụng pháp luật với loại chế tài nghiêm khắc nhất trong các loại chế tài để trừng trị bất cứ một hành vi vi phạm pháp luật nào - chế tài hình sự.
Quốc triều hình luật, thành tựu quan trọng nhất của việc pháp điển hóa pháp luật nhà Hậu Lê thì hệ thống hình phạt, một trong những công cụ quan trọng nhất để nhà Hậu Lê sử dụng để đảm bảo pháp luật thực hiện trên thực tế, cũng đề cao vai trò của pháp luật được các nhà làm luật nhà Hậu Lê đặc biệt quan tâm, được quy định ngay tại điều luật đầu tiên của chương đầu tiên của Quốc triều hình luật, cụ thể hệ thống hình phạt được quy định tại Điều 1 - chương Danh lệ, bao gồm 5 loại hình phạt đó là: Xuy hình; Trượng hình; Đồ hình; Lưu hình Tử hình với sự quy định rất cụ thể về các mức hình phạt cụ thể, đồng thời các loại và mức hình phạt cụ thể của từng loại hình phạt còn được phản chiếu, quy định trong đại đa số các điều luật trong 722 điều luật thuộc 13 chương của Quốc triều hình luật. Cụ thể, trong 722 điều luật của Quốc triều hình luật chỉ có 60 điều luật, trong đó chương Danh lệ có 48 điều, chương bổ sung thêm về luật hương hỏa có 3 điều, chương châm chước bổ sung về luật hương hỏa có 8 điều, chương Đoán ngục có 1 điều là không có phần chế tài hình sự([13]). 60 điều này chủ yếu thuộc về chương Danh lệ, chương quy định về hệ thống hình phạt, quy định khát quát về những hành vi thuộc nhóm tội thập ác; quy định về nguyên tắc chung khi xét xử, quyết định hình phạt, áp dụng hình phạt… giải thích một số thuật ngữ được sử dụng trong bộ luật. Đồng thời tất cả các loại vi phạm khác nhau thuộc về các lĩnh vực khác nhau đều bị áp dụng hình phạt, từ vi phạm hình sự, đến các vi phạm trong các giao dịch dân sự, vi phạm hành chính, thậm chí cả những vi phạm thuần túy chỉ thuộc về lĩnh vực đạo đức xã hội, điều bị áp dụng hình phạt khi có các hành vi tương ứng. Các hình phạt này trong thực tế cai trị được các triều vua sử dụng triệt để và mang lại hiệu quả trong chính sách cai trị của mình.
Thể chế hòa giải đã được ghi nhận trong Quốc triều hình luật với hai nội dung cơ bản và quan trọng đã được làm rõ là thẩm quyền hòa giải của quan xã và các trường hợp không được hòa giải, trong đó các quy định về các trường hợp không được hòa giải thể hiện rất rõ sự ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị, tư tưởng dùng hình để trừng trị người vi phạm, qua đó đề cao vai trò của pháp luật. Các nhà làm luật triều Hậu Lê đã quy định những hình phạt trừng trị những người cố tình hòa giải riêng với các trường mà pháp luật đã cấm như người công sai (người đi làm việc công, việc nhà nước) không được hòa giải riêng với người phạm tội đánh chửi mình, nếu mà làm trái quy định này sẽ bị xử phạt 80 trượng; tiền tạ phải xung công; những người phát giác việc công (đó người tố cáo là hình quan và ngục quan) không được hòa giải riêng với bị cáo; nếu làm trái quy định này thì bị xử phạt 50 roi, biếm một tư. Như vậy, xuất phát từ vai trò của việc công, việc công quyền, hiệu quả của việc thực hiện việc công, cũng như những hậu quả của việc hòa giải riêng liên quan đến việc công có thể ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện việc công, uy tín của các cơ quan công quyền có thể bị hạ thấp, pháp luật không được tôn trọng, đề cao… mà pháp luật có những hình thức chế tài hình sự để trừng trị những người có liên quan cố tình hòa giải các trường hợp không được hòa giải liên quan đến việc thực hiện công quyền. Như vậy, việc pháp luật dùng hình phạt trừng trị những chủ thể trong những trường hợp không được hòa giải là một biểu hiện của tư tưởng pháp trị có vai trò bổ trợ cho hòa giải, một mặt pháp luật đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho hòa giải, tạo ra cách thức, bước đi, rồi các trường hợp được cũng như không được hòa giải, mặt khác chính các biện pháp dùng hình phạt trừng trị những người đã cố tình hòa giải các trường hợp không được hòa giải đó trong tư tưởng pháp trị sẽ là một phương thức làm cho hòa giải đạt đến được mục đích, bản chất thật sự của nó, góp phần củng cố thể chế hòa giải trong thực tiễn cuộc sống, cũng như góp phần hạn chế những hòa giải có thể ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, của tập thể và của công dân khác. Đồng thời, hòa giải cũng là một hình thức để củng cố pháp trị, hòa giải sẽ hạn chế tối đa được những mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột xã hội, hạn chế và giảm bớt mức độ của vi phạm, pháp luật được thực thi trong rất nhiều trường hợp trong hòa giải, qua đó pháp luật sẽ được đề cao và thực thi đầy đủ và nghiêm chỉnh trong đời sống.
3. Những bài học kinh nghiệm lịch sử
Mặc dù các vấn đề về thể chế hòa giải trong Quốc triều hình luật mới chỉ dừng lại những quy định mang tính chất sơ khai, chưa bao quát được tất cả các vấn đề về thể chế hòa giải trong hệ thống pháp luật thực định hiện nay. Tuy nhiên, nếu xét tại thời điểm, hoàn cảnh xã hội mà nó được hình thành thì những quy định đó lại là những thành tựu quan trọng mà pháp luật phong kiến thời kì Hậu Lê nói chung, cũng như Quốc triều hình luật đã đạt được. Sự quy định này đã phần nào đáp ứng được một nhu cầu quan trọng trong xã hội lúc bấy giờ đó là nhu cầu đoàn kết dân tộc trong đấu tranh để tồn tại và phát triển. Đồng thời, sự quy định đó góp phần đề khẳng định thể chế hòa giải có ý nghĩa to lớn trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội thời kì nhà nước phong kiến Đại Việt dưới triều Hậu Lê, đầu tiên có thể nhận thấy được hòa giải chính là phương thức giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội, góp phần tăng cường, củng cố tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, hòa thuận, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng xã hội, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong nhân dân.
Trong việc hoàn thiện thể chế hòa giải ở Việt Nam trong thời gian tới, chúng ta vẫn có thể kế thừa được nhiều tư tưởng, quy định rất quan trọng trong việc xây dựng thể chế hòa giải được các nhà lập pháp triều Hậu Lê quán triệt trong Quốc triều hình luật.
+ Thứ nhất: kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố "nhu" trong triết lý phật giáo với yếu tố "cương" trong tư tưởng pháp trị (của pháp luật) trong việc xây dựng thể chế hòa giải, đặc biệt là vấn đề hòa giải tại cơ sở, cộng đồng dân cư. Phật giáo ở việt nam hiện nay tuy không phải là vào thời kì phát triển cực thịnh, nhưng hiện nay phật giáo là một trong 12 tôn giáo được công nhận và là 1 trong 6 tôn giáo lớn nhất trong 12 tôn giáo đó, với số lớn tín đồ phật giáo đông đảo nhất, và phật giáo có sức ảnh hưởng rất lớn và sâu rộng đến đời sống tín ngưỡng, tâm linh của người Việt nói riêng và phong tục tập quán, đời sống văn hóa xã hội của người Việt nói chung. Đạo phật là tôn giáo luôn đề cao sự hòa hợp, sự nhẫn nhịn, đoàn kết trên tinh thần giải thoát và giác ngộ của con người, đề cao tinh thần khoan dung – vị tha, kết hợp yếu tố "nhu" là sự mềm mỏng, nhẹ nhàng, phân tích đúng sai trong quan điểm nhân sinh quan làm tư tưởng chủ đạo của mình để giáo hóa các tín đồ và dân chúng. Còn đối với pháp luật, khi đề cập đến pháp luật đó là sự cứng rắn, kiên quyết và dựa vào lẽ phải, dựa vào sự "chuẩn mực" của các quy phạm pháp luật đã được thể chế hóa và không thể làm khác, đó chính là yếu tố "cương" của pháp luật. Có nghĩa rằng, trong công tác hòa giải đặc biệt là hòa giải tại cơ sở, hòa giải tại cộng đồng dân cư hiện nay phải có sự phối kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố này, phải lấy yếu tố "nhu" trong triết lý phật giáo Việt Nam thiên về sự mềm mỏng, khoan dung, vị tha, về sự nhẹ nhàng, về yếu tố "tình cảm" để thứ nhất có thể hạn chế, làm giảm bớt, đồng thời bổ sung thêm cho yếu tố "cương", sự "sơ cứng" trong các quy định của pháp luật làm cho việc hòa giải trở lên linh động, có thể "thấu tình, đạt lý", điều này không phải là hạ thấp vai trò của pháp luật trong công tác hòa giải, mà trong rất nhiều trường hợp hòa giải tại cơ sở hiện nay nếu chỉ đơn thuần dựa vào các quy định của pháp luật để chỉ ra những vi phạm, rồi hậu quả pháp lý bất lợi của những vi phạm đó để làm cơ sở cho việc hòa giải thì sẽ không mang lại hiệu quả, mà phải kết hợp với sự nhẹ nhàng khuyên bảo dựa trên các chuẩn mực đạo đức xã hội, dựa trên truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc về truyền thống đạo đức gia đình, làng xã… thậm chí cả niềm tin, giáo lý tôn giáo qua đó tôn trọng sự tự thỏa thuận của các đương sự, các chủ thể tranh chấp, mâu thuẫn để hòa giải thì mang lại hiệu quả cao hơn nhiều, bởi đối với người Việt đối với một sự việc nào đó thì bên cái "lý" còn có cái "tình".  Chính vì vậy, sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố "nhu" và "cương" trong công tác hòa giải sẽ mang lại hiệu quả cao cho hoạt động này.
+ Thứ hai: Cần kế thừa và phát huy quy định về các trường hợp không được hòa giải liên quan đến việc công, đến việc thực hiện các công việc của nhà nước, đến hiệu quả của việc quản lý nhà nước, điều này được ghi nhận xuất phát từ thực tế trong một số trường hợp các bên tranh chấp mà hòa giải trong một số trường hợp, vụ việc nhất định có thể ảnh hưởng đến việc công quyền, đến việc thực hiện các nhiệm vụ chung trong chức năng quản lý nhà nước mà Quốc triều hình luật đã thể chế hóa, qua đó có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, cũng như các chủ chương, chính sách và đường lối cai trị của lực lượng cầm quyền. Các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải tại cơ sở hiện nay cũng đã thể hiện được "dáng dấp" của các quy định này, cụ thể tại điều 5 - Nghị định số 15/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/2/2014 về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở có ghi nhận: không được hòa giải các trường hợp sau: (i) Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; (ii) Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội; (iii) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ các trường hợp quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP;(iv) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý vi phạm hành chính, trừ các trường hợp quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP;…
+ Thứ ba: Quy định rõ ràng và tăng thẩm quyền hòa giải cho cấp có thẩm quyền hòa giải tại cơ sở, cộng đồng dân cư, trong Quốc triều hình luật chủ thể có thẩm quyền hòa giải tại cộng đồng dân cư đối với các vụ kiện nhỏ là các xã quan, điều này là rất hợp lý, bởi lẽ sẽ giảm được các chi phí tố tụng không cần thiết, giảm được các thủ tục tố tụng của cấp huyện trở lên, giảm bớt được các vụ kiện tụng lớn, đặc biệt có thể giữ vững được tình làng nghĩa xóm, đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Hiện nay, Hoà giải ở cơ sở được thực hiện thông qua hoạt động của Tổ hoà giải hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân được tiến hành đối với việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư. Để phát huy hơn nữa vai trò của công tác hòa giải tại cơ sở, cũng như đạt được ý nghĩa, vai trò thật sự của hoạt động này cần quy định và tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn nữa về thẩm quyền, phạm vi, nhiệm vụ và phương thức hòa giải cụ thể cho các hòa giải viên, chủ thể chính và quan trọng nhất trong công tác hòa giải tại cơ sở, đồng thời tạo các điều kiện về chế độ đãi ngộ cả về vật chất và tinh thần cho đội ngũ này trong công tác hòa giải, qua đó mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động hòa giải tại cơ sở hiện nay và trong tương lai./.
Ngô Thanh Xuyên
 
([1]) Nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền thời Lê Sơ (thế kỉ XV - thế kỉ XVI) đến nhà nước trong thời kì nội chiến phân liệt (thế kỉ XVI - thế kỉ XVIII) được gọi chung là Nhà nước Hậu Lê (1428 - 1789)
([2] )Vũ Văn Mẫu (1970), Cổ luật Việt Nam lược khảo, quyển thứ nhất, Sài Gòn, trang 145
([3]) Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê) (1991), Viện Sử học Việt Nam và Nhà xuất bản Pháp lý, trang 17.
([4]) Viện Sử học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2009), Cổ luật Việt Nam Quốc triều hình luật và Hoàng Việt Luật Lệ, Nxb Giáo dục Việt Nam, trang 8.
([5]) Lưỡng Thần - Cao Nãi Quang (người dịch) (1956), Quốc triều hình luật (hình luật triều lê), Trườn luật khoa đại học, Sài Gòn, trang 268
([6]) Lê Minh Tâm, Vũ Thị Nga (2006), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, trường Đại học Luật Hà nội, Nxb Công an nhân dân, trang 255
([7]) Vũ Văn Mẫu (1975), Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử diễn giải, quyển thứ hai, Sài gòn, trang 233
([8]) Lưỡng Thần - Cao Nãi Quang (người dịch) (1956), Quốc triều hình luật (hình luật triều lê), Trường luật khoa đại học, Sài Gòn, trang 202
([9]) Lưỡng Thần - Cao Nãi Quang (người dịch) (1956), Quốc triều hình luật (hình luật triều lê), Trường luật khoa đại học, Sài Gòn, trang 288
([10]) Hòa hưu là điều đình riêng với kẻ bị việc phát giác mà thôi không phát giác nữa; hay là đã đệ đơn phát giác mà lại xin rút đơn.
([11]) Trần Văn Quảng (2004), Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam - cơ sở lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, trang 57.
([12]) Hàn Phi (1992), Hàn Phi Tử, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội, trang 225
([13]) Vũ Thị Nga…….sđd, trang 92