Bất cập xử lý trách nhiệm hình sự liên quan đến pháo và thuốc lá

22/09/2016
Tình trạng buôn lậu, hàng cấm, gian lận thương mại và hàng giả nói chung và mặt hàng thuốc lá, pháo nói riêng diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn cho phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất trong nước đồng thời gây ra những tác hại khó lường, ảnh hưởng xấu đến tính mạng, sức khỏe của con người, đến trật tự quản lý kinh tế và trị an xã hội. Do đó, Nhà nước đã quy định cụ thể: “pháo các loại” và “thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác” thuộc Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 43/2009/NĐ -CP ngày 07/5/2009 và hợp nhất theo Văn bản số 19/VBHN-BCT ngày 09/5/2014). Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-VKNDTC-TANDTC ngày 25/12/2008  Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ và thuốc pháo (viết tắt Thông tư số 06/2008/TTLT). Mà theo đó, hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép pháo có số lượng từ 10kg trở lên hoặc dưới số lượng đó, nhưng đã bị xử phạt hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 36/2012/TTLT-BCT-BCA-BTP-BYT-TANDTC-VKSNDTC ngày 07/12/2012 của Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý vi phạm về kinh doanh rượu nhập lậu, sản phẩm thuốc lá và nguyên liệu thuốc lá nhập lậu, làm cơ sở xác định định lượng để xử lý hành vi sản xuất, buôn bán, vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, có hiệu lực từ ngày 05/01/2016 (viết tắt Nghị định số 124/2015/NĐ-CP). Theo đó, hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng 500 bao trở lên thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải áp dụng quy định của Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015) thì “pháo các loại” và “sản phẩm thuốc lá” lại thuộc Danh mục “ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện” (Phụ lục 04 - Luật Đầu tư năm 2014). Từ đó dẫn đến một bất cập là: Luật Đầu tư năm 2014 và Luật Thương mại năm 2005 chồng chéo nhau về đối tượng điều chỉnh. Vấn đề đặt ra: Từ ngày 01/7/2015, pháo và thuốc lá có còn là hàng cấm hay không ? Cơ quan tiến hành tố tụng có thể điều tra, truy tố, xét xử đối với những người có hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán pháo, thuốc lá ngoại nhập lậu theo quy định tại các điều 153, 154 và 155 BLHS năm 1999 không ? Thực tiễn cho thấy, tại một số địa phương đã có việc nhận thức và áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Cụ thể: Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đều thống nhất quan điểm cho rằng: Hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo và thuốc lá ngoại nhập lậu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005, cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư năm 2014, nên vẫn tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố đối với những người có hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo và thuốc lá ngoại nhập lậu nếu đủ số lượng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT và Nghị định số124/2015/NĐ-CP. Chẳng hạn, với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu từ 500 bao trở lên sẽ bị xem xét xử lý hình sự theo khoản 1, Điều 155 BLHS năm 1999 (căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 25 Nghị định 124/2015/NĐ-CP). Tuy nhiên việc xử lý hình sự tình tiết định khung tăng nặng, như: Hàng phạm pháp có số lượng lớn (khoản 3); hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn (khoản 4) của Điều 155 BLHS năm 1999 lại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
Qua nghiên cứu cho thấy việc xử lý, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là pháo nổ hiện nay còn bất cập, chưa có sự thống nhất về cách hiểu và đường lối xử lý.
Thứ nhất: Pháo là mặt hàng cấm hay là mặt hàng kinh doanh có điều kiện?
Theo Danh mục 1 Hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện ban hành kèm theo Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/03/1999 của Chính Phủ về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thì các loại pháo là một trong những hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện.
Bên cạnh đó, ngày 15/4/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 36/2009/NĐ-CP về quản lý, sử dụng pháo có quy định các hành vi sau đây bị cấm:
“1. Sản xuất, mua, bán, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép các loại pháo nổ, thuốc pháo nổ.
2. Sản xuất, mua, bán, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép các loại pháo hoa, thuốc pháo hoa..."
Nhưng tại Phụ lục 4 Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện ban hành kèm theo Luật Đầu tư năm 2014 (có hiệu lực ngày 01/7/2015) thì kinh doanh các loại pháo là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Như vậy, để xác định mặt hàng pháo có phải hàng hóa thuộc diện hàng cấm thì cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào Nghị định số 11/1999/NĐ-CP, Nghị định số 36/2009/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên, từ ngày 01/7/2015 Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, nên việc xác định pháo là mặt hàng cấm hay là mặt hàng kinh doanh có điều kiện để có biện pháp xử lý đối với các hành vi này còn gặp khó khăn và thiếu sự thống nhất trong việc vận dụng.
Thứ hai: Về căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLHS năm 1999 quy định về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, thì “Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán  hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại các điều 153, 154, 156, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại  các Điều  193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236  và 238 của Bộ luật này, thì  bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm...".
Để xác định thế nào là hàng hóa “có số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT đã có hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ và thuốc pháo. Mà theo đó, tại điểm 2.3 tiểu mục 2 mục 3 Thông tư này có quy định: "Người nào mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép pháo nổ có số lượng từ 10 kg đến dưới 50 kg (được coi là số lượng lớn) hoặc dưới số lượng đó, nhưng đã bị xử phạt hành chính, hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 tương ứng của Điều 153, Điều 154 hoặc Điều 155 BLHS...” .Theo quy định vừa trích dẫn, bất cứ hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép pháo nổ có số lượng hàng phạm pháp từ 10kg trở nên hoặc dưới 10 kg nhưng đã bị xử lý hành chính hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, việc xác định người có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm hình sự hay không thì căn cứ vào số lượng hàng phạm pháp.
Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm 2015 tại Điều 190 “Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm”; Điều 191 “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” có quy định về việc xác định người có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm hình sự hay không phải căn cứ vào mặt hàng phạm pháp đã liệt kê trong điều luật hoặc giá trị hàng phạm pháp. Theo liệt kê tại Điều 190 và Điều 191 Bộ luật này thì các mặt hàng phạm pháp bao gồm: “hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối”. Do đó, mặt hàng “Pháo các loại” được coi là hàng phạm pháp khác và căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào giá trị của số hàng phạm pháp đó hoặc số tiền hưởng lợi bất chính theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 của Điều 190 và Điều 191 BLHS năm 2015.
Như vậy, quy định tại Thông tư 06/2008/TTLT và BLHS năm 2015 có sự không thống nhất trong cách xác định căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Hơn nữa, đã là mặt hàng Nhà nước cấm thì việc xác định giá trị hàng phạm pháp được tính như thế nào? Cơ quan nào có trách nhiệm thẩm định giá và căn cứ vào giá nào để áp giá xác định giá trị hàng phạm pháp có đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này?
Cạnh đó, ngày 26/01/2016, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 06/2016 hướng dẫn các Tòa án địa phương xử lý các tội danh trên theo hướng: Khi xác định có hành vi vận chuyển, buôn bán pháo và thuốc lá ngoại nhập lậu qua biên giới thì xử lý theo Điều 153, Điều 154 BLHS năm 1999 nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, nghĩa là vẫn xác định pháo, thuốc lá là hàng cấm. Nhưng nếu chỉ thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo và thuốc lá ngoại nhập lậu trong nội địa thì không xác định là hàng cấm và dừng việc xét xử.
Điều 190 BLHS năm 2015 có quy định “Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm”, mà theo đó, tại khoản 1 của Điều luật này quy định:
“ Người nào sản xuất, buôn bán hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Hàng phạm pháp là hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối;
b) Hàng phạm pháp khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
c) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Hàng phạm pháp khác trị giá dưới 100.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính dưới 50.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
đ) Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.”
Điều 191 BLHS năm 2015, quy định “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm”, tại khoản 1 Điều này quy định:
“Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Hàng phạm pháp là hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối;
b) Hàng phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
c) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Hàng phạm pháp trị giá dưới 100.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính dưới 50.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
đ) Vận chuyển hàng cấm qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.”
Theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội khóa XIII về việc lùi hiệu lực thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13,…Mà theo đó, thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Hình sự; tiếp tục áp dụng khoản 2 Điều 1 và các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015/QH13. Từ đó có quan điểm cho rằng, kể từ ngày BLHS năm 2015 được công bố, đối với hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu điều luật đã quy định khác có lợi cho người phạm tội nên các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định giá trị hàng phạm pháp (pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu) để làm căn cứ xử lý. Nếu giá trị hàng phạm pháp dưới 100.000.000 đồng thì không xử lý hình sự (ngoài các yếu tố cấu thành cơ bản khác).
Người viết đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ, nội dung cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 190 “Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm”; Điều 191 “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” của BLHS năm 2015 đã bỏ cụm từ “có số lượng lớn”; quy định giá trị: “hàng phạm pháp khác trị giá trên 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng” điểm b, khoản 1, Điều 190 BLHS năm 2015; “hàng phạm pháp trị giá trên 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng” điểm b, khoản 1, Điều 191 BLHS năm 2015. Đối chiếu với Điều 155 BLHS năm 1999 “Tội Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm” thì Điều 190 và Điều 191 BLHS năm 2015 đã quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội, theo đó, từ điều luật quy định yếu tố định lượng (số lượng hàng phạm pháp) chuyển sang điều luật quy định yếu tố giá trị (trị giá hàng phạm pháp). Căn cứ khoản 3, Điều 7, BLHS năm 2015 và điểm b, khoản 1, Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự thì các quy định có lợi nêu trên đều phải được xem xét vận dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, để việc xử lý hành vi phạm tội “Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm” theo Điều 155 BLHS năm 1999, Cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải trưng cầu định giá tài sản xác định trị giá hàng phạm pháp để làm căn cứ xử lý.
Nhưng việc trưng cầu định giá tài sản hàng phạm pháp là pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu, nhiều Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự theo Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự và Thông tư 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 26/2005/NĐ-CP, lại xác định: Tài sản không có nguồn gốc hợp pháp không có hóa đơn chứng từ mua bán, do vậy không có căn cứ để định giá tài sản. Từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng không có căn cứ để xử lý. Quan điểm này, theo người viết là không sai, nếu không muốn nói đã phản ánh đúng thực trạng khách quan, nhưng lại là điều bế tắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng!
 Theo người viết, việc quy định trị giá hàng phạm pháp (hàng cấm) để xử lý hình sự là một bất cập, vì: Trên thực tế đã là hàng cấm, không được phép lưu hành trên thị trường thì sẽ không có giá, do đó, sẽ không xác định được giá. Đây là vướng mắc trong việc xử lý hình sự đối với các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu.
Để xử lý các hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ pháo nổ được triệt để, thống nhất, đề nghị liên ngành tư pháp Trung ương sớm hướng dẫn xử lý những vấn đề nêu trên để việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi này đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. Đồng thời đây cũng là vấn đề mà Ban soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 cần tính tới. 
 
ThS.LS Lê Văn Sua, Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang