Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015

20/09/2016
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội nước ta khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/ 2013 đang ngày càng đi sâu vào thực tế cuộc sống với những quy định làm nền tảng cho những văn bản pháp luật khác, đáp ứng được bối cảnh nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa, diễn ra trong tất cả các ngành, các lĩnh vực, trong đó lĩnh vực pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng cũng được Nhà nước xem là một trọng tâm trong tiến trình cải cách, đổi mới, là một trong những yêu cầu bức bách của việc hoàn thiện bộ máy Nhà nước, phục vụ tốt nhất cho công cuộc đổi mới đất nước.
Bộ luật hình sự  năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) (viết tắt BLHS năm 1999) đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, trong thời gian qua, bên cạnh những mặt tích cực, những thành tựu đạt được thì sự vận động nội tại của kinh tế thị trường đã phát sinh những mặt trái, trong đó là tình hình và tỷ lệ tội phạm gia tăng cả về số lượng lẫn mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,  nổi lên là một số loại tội phạm do pháp nhân thực hiện như tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, tội phạm môi trường... để lại những hậu quả xấu, gây thiệt hại rất nghiệm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cho môi trường sống của người dân nói riêng và sự phát triển ổn định trật tự - an ninh  của đất nước nói chung nhưng chưa được quy định trong BLHS như là một tội phạm.
Trong nền kinh tế thị trường không ít tổ chức kinh tế - pháp nhân thương mại, vì chạy theo lợi nhuận cục bộ đã có sự thông đồng thực hiện nhiều hành vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế như trốn thuế, kinh doanh trái phép, đầu cơ, buôn lậu hoặc vì lợi ích cục bộ đã không thực hiện các biện pháp mà pháp luật đòi hỏi để bảo vệ môi trường, gây hậu quả nghiêm trọng. Việc núp bóng dưới danh nghĩa pháp nhân để phạm tội ngày càng tăng, tính chất nguy hiểm ngày càng cao. Các hành vi vi phạm pháp luật mang tính chất tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện trong thời gian qua diễn ra ngày càng tăng như buôn lậu, gian lận thương mại, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; tội phạm trong các lĩnh vực chứng khoán, môi trường, tài nguyên,… Đa số những trường hợp trên là do cơ quan lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân thương mại thực hiện vì lợi ích của pháp nhân đó hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân thương mại với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có tổ chức cao và có những trường hợp mang tính quốc tế, gây thiệt hại nghiêm trọng cho kinh tế - xã hội và cho đời sống của người dân, đòi hỏi cần phải có giải pháp mạnh để phòng ngừa và đấu tranh.
Thời gian qua, dư luận trong nước rất bất bình và thế giới cũng rất quan tâm đến vụ Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh-FHS có hành vi hủy hoại môi trường biển Việt Nam, bằng việc xả chất thải có chứa độc tố là nguyên nhân làm hải sản và sinh vật biển chết hàng loạt, nhất là ở tầng đáy. Mà theo đó, qua thu thập, phân tích dữ liệu, đã xác định có nguồn thải lớn xuất phát từ khu vực Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, chứa độc tố như Phenol, Xyanua,… kết hợp với Hydroxit sắt, tạo thành một dạng phức hỗn hợp (Mixel), có tỷ trọng lớn hơn nước biển, theo dòng hải lưu di chuyển theo hướng Bắc-Nam từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên-Huế.
Thực tiễn áp dụng pháp luật thời gian qua đã cho thấy, cơ chế xử phạt vi phạm hành chính và bồi thường thiệt hại áp dụng đối với pháp nhân thương mại vi phạm tỏ ra bất cập, kém hiệu quả. Mặc dù quy trình xử phạt vi phạm hành chính có ưu điểm là nhanh, kịp thời nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp, minh bạch và không giải quyết được triệt để quyền lợi của người dân bị thiệt hại mà họ phải tự chứng minh thiệt hại để yêu cầu bồi thường. Hơn nữa, cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính không có đội ngũ cán bộ chuyên trách để điều tra, chứng minh vi phạm cũng như hậu quả của vi phạm. Mặt khác, trong điều kiện chúng ta đang triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua năm 2014 đã có nhiều đổi mới theo hướng mở rộng quyền cho các doanh nghiệp, mà theo đó, nhiều quyết định quan trọng của pháp nhân thương mại do tập thể Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị hoặc Đại hội cổ đông thông qua. Vì vậy, nếu trong trường hợp này chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân thì sẽ không công bằng. Hơn nữa, có trường hợp khó xác định được cụ thể người phải chịu trách nhiệm chính để xử lý hình sự. Ngoài ra, trên thực tế cũng đã có trường hợp cá nhân lợi dụng danh nghĩa tập thể để thực hiện hành vi phạm tội nhằm trốn tránh trách nhiệm. Ngoài ra, thực tiễn cho thấy có một số khoảng trống trong việc xử lý vi phạm của pháp nhân, nhất là trong lĩnh vực tham nhũng, rửa tiền, buôn bán người, khủng bố, tài trợ khủng bố ..... thể hiện ở chỗ đối với cá nhân có hành vi vi phạm này thì bị xử lý hình sự, trong khi đó, nếu pháp nhân thương mại cũng thực hiện các hành vi này, thậm chí là ở quy mô và mức độ nghiêm trọng hơn thì không xử lý hình sự được kể cả hành chính, gây ra tình trạng bỏ lọt tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, và gây cản trở cho tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của đất nước ta. Đây là bất cập cần được khắc phục và điều này cũng góp phần thực thi điều ước có liên quan mà nước ta là thành viên.
Mặt khác, Việt Nam đã ký kết Công ước Liên Hiệp Quốc về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (Công ước TOC), theo Công ước này, yêu cầu tất cả quốc gia thành viên áp dụng những biện pháp cần thiết để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia vào các nhóm tội phạm nghiêm trọng… gồm hành vi tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức, rửa tiền, cản trở công lý. Trách nhiệm pháp lý ở đây có thể là trách nhiệm hình sự, dân sự hay hành chính. Tuy nhiên, hầu hết các hành vi mà Công ước TOC yêu cầu lại không được coi là vi phạm hành chính theo pháp luật Việt Nam nên không thể buộc tổ chức chịu trách nhiệm hành chính đối với hầu hết tội phạm này, cụ thể về trách nhiệm pháp lý của pháp nhân, định tại Điều 10 Công ước TOC quy định: 
“1. Mỗi quốc gia thành viên sẽ ban hành những biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia vào các tội phạm nghiêm trọng liên quan đến nhóm tội phạm có tổ chức và trong việc thực hiện những hành vi phạm tội theo quy định tại các điều 5, 6, 8 và 23 của Công ước này;
2. Với điều kiện không trái với các nguyên tắc pháp luật của quốc gia thành viên, pháp nhân có thể phải chịu trách nhiệm hình sự, dân sự hoặc hành chính;
3. Trách nhiệm pháp lý của pháp nhân không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của những thể nhân đã thực hiện hành vi phạm tội;
4. Đặc biệt là mỗi quốc gia thành viên phải đảm bảo áp dụng đối với những pháp nhân bị quy kết trách nhiệm pháp lý theo quy định tại điều này những biện pháp chế tài hiệu quả, tương ứng với tính chất và mức độ của tội phạm và đủ sức răn đe, có thể là chế tài hình sự, chế tài phi hình sự hoặc phạt tiền”.
Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cơ hội các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài đầu tư ngày càng nhiều và ngược lại, nếu pháp luật nước ta chỉ áp dụng cơ chế xử phạt hành chính đối với pháp nhân vi phạm thì sẽ là bất công, bởi cùng hành vi vi phạm nghiêm trọng tương tự nhau mà doanh nghiệp Việt Nam hoạt động ở nước ngoài thì bị xử lý hình sự theo pháp luật của nước sở tại, còn đối với doanh nghiệp Việt Nam lẫn doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở nước ta mà vi phạm thì chỉ bị xử phạt hành chính. Trong khi đó, vấn đề xử lý hình sự pháp nhân đã được hệ thống pháp luật của 119 quốc gia trên thế giới quy định và áp dụng, như: Nhật Bản, Trung Quốc,Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia,…  và 06 quốc gia thuộc khối ASEAN, gồm: Singapo, Malaixia, Thái Lan, Philipin, Indonexia và Campuchia đã hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân từ rất lâu. Đặc biệt,Trung Quốc là quốc gia có nhiều nét tương đồng về truyền thống lập pháp với nước ta cũng đã có quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. tại Điều 346 BLHS Trung Quốc quy định chủ thể của tội phạm xâm phạm tài nguyên rừng là pháp nhân, như sau: “Đơn vị nào phạm những tội quy định từ Điều 338 đến Điều 345 của Mục này sẽ bị phạt tiền; đối với những người quản lý trực tiếp và những nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác sẽ bị xử phạt theo quy định tại các điều nói trên của Mục này.
Lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự nước ta, BLHS và  BLTTHS năm 2015 đã ban hành những quy định về TNHS của pháp nhân thương mại, cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng và  Hiến pháp năm 2013. Nhằm phát huy hơn nữa vai trò của 02 Bộ luật với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, đấu tranh chống tham những có hiệu quả, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước.
1. Những quy định mới trong BLHS năm 2015 về TNHS đối với pháp nhân thương mại
1.1. Khái niệm TNHS đối với pháp nhân thương mại
TNHS là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình, bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS là hình phạt, biện pháp tư pháp và mang án tích. TNHS của pháp nhân không vượt ra khỏi nội hàm của khái niệm TNHS, chỉ khác ở điểm, thay vì trước đây TNHS chỉ áp dụng cho cá nhân người phạm tội thì nay có thể áp dụng cho pháp nhân thương mại. Như vậy, TNHS của pháp nhân trong khoa học pháp luật hình sự có thể hiểu là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân do luật hình sự quy định.
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, quy định khái niệm tội phạm, trong đó bổ sung chủ thể là pháp nhân thương mại, theo đó khi pháp nhân thương mại thực hiện hành vi bị coi là tội phạm, xâm hại đến các giá trị, quan hệ xã hội được Nhà nước và pháp luật bảo vệ thì pháp nhân thương mại sẽ phải chịu trách nhiệm, tức phải chịu TNHS - hậu quả pháp lý bất lợi được biểu hiện cụ thể ở những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước áp dụng, tước bỏ hay hạn chế các quyền và lợi ích của pháp nhân không bị bất kỳ sự cản trở nào. Pháp nhân đó phải tự mình gánh chịu TNHS, không thể ủy thác hoặc chuyển cho một pháp nhân khác như cơ quan quản lý cấp trên hay cho một pháp nhân con của mình chịu thay được.
TNHS của pháp nhân thương mại sẽ được áp dụng thông qua một trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định để đảm bảo tính khách quan, trung thực trong hoạt động tố tụng. TNHS của pháp nhân thương mại cũng phải được thể hiện rõ ràng trong bản án hay quyết định của Tòa án và một pháp nhân thương mại cũng chỉ bị coi là có tội khi bị kết án bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án là cơ sở pháp lý khẳng định một pháp nhân thương mại có tội hay không, quy định các hình thức TNHS mà pháp nhân đó phải gánh chịu. Bản án hay quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật sẽ được đưa ra thi hành và có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước cũng như mọi cá nhân và như vậy, TNHS đối với pháp nhân thương mại sẽ được bảo đảm thi hành trên thực tế.
1.2. Những quy định mới trong BLHS năm 2015 về TNHS đối với pháp nhân thương mại
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 2 BLHS năm 2015 về cơ sở TNHS “2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy địnhtại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Cần hiểu khái niệm pháp nhân thương mại theo đúng tinh thần của nhà làm luật, đó là chỉ nên đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các pháp nhân kinh tế. Còn những pháp nhân khác hoặc những tổ chức không có tư cách pháp nhân , như: cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, ... thì không là chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Mặt khác, theo quy định tại các Điều 74, Điều 75 và Điều 76 BLDS năm 2015 có 02 loại pháp nhân, đó là: Pháp nhân thương mại (gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác) và Pháp nhân phi thương mại (gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác). Và theo Khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015, chỉ có pháp nhân thương mại phạm các tội theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới chịu TNHS. Như vậy, chỉ những pháp nhân gắn với hoạt động thương mại mới chịu TNHS. Thực tế cho thấy, gần đây các vụ việc vi phạm nghiêm trọng luật pháp về môi trường, kinh tế do các pháp nhân thương mại thực hiện ngày càng tinh vi và để lại hậu quả nghiêm trọng , thì việc quy định TNHS đối với pháp nhân thương mại là phù hợp với thực tiễn nhằm tạo tính răn đe cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần phòng, chống các loại tội phạm mà chủ thể là pháp nhân vì lợi nhuận gây hại đến môi trường, kinh tế và các lĩnh vực khác.
Thứ hai, bổ sung nguyên tắc xử lý pháp nhân phạm tội
 Tại khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015 có quy định: “Đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
d) Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra”
Thứ ba, quy định pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu TNHS
Tại khoản 2 Điều 6 BLHS năm 2015, quy định:“Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Quy định này mang tính pháp điển hóa những quy định trong các Điều ước quốc tế về tội phạm mà Việt Nam là thành viên như Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961; Công ước về các chất hướng thần năm 1971; Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988; Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 và Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000; Công ước chống tham nhũng năm 2003; Công ước chống tra tấn năm 1984; và các điều ước quốc tế liên quan đến chống khủng bố, tài trợ khủng bố, rửa tiền, cướp biển, bắt cóc con tin,... 
Thứ tư, khái niệm về tội phạm đã được mở rộng bao gồm cả pháp nhân thương mại phạm tội 
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Đây là điểm khác biệt hoàn toàn với khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999, qua đó tạo cơ sở vững chắc để truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại, mang bốn đặc trưng của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi, tính phải chịu hình phạt và đối với pháp nhân còn phải đảm bảo quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm hình phạt theo hướng mở rộng chủ thể, Điều 30 BLHS năm 2015 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”. Đồng thời, BLHS năm 2015 còn quy định mục đích của hình phạt đối với pháp nhân thương mại ngoài việc trừng trị còn nhằm mục đích giáo dục, răn đe, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an toàn và sự phát triển của xã hội, qua đó góp phần đảm bảo sự công bằng trong xử lý hình sự giữa cá nhân với pháp nhân thương mại theo đúng nguyên tắc “Mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”.
Dựa trên kinh nghiệm của các nước khác và thực tiễn pháp nhân thương mại phạm tội ở Việt Nam và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, BLHS năm 2015 quy định bao gồm hai loại hình phạt là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, cụ thể:
+Hình phạt chính: Khoản 1 Điều 33 BLHS năm 2015 quy định “Hình phạt chính bao gồm:a) Phạt tiền;b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn”.
+ Hình phạt bổ sung: Khoản 2 Điều 33 BLHS năm 2015 quy định “Hình phạt bổ sung bao gồm:a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;b) Cấm huy động vốn;c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính”.
 Khoản 3 Điều 33 năm 2015 quy định “Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung”.
Một trong những đặc điểm nổi bật trong quy định hình phạt đối với pháp nhân thương mại là các nhà làm luật “đánh mạnh” vào mặt kinh tế của pháp nhân, xuất phát từ mục đích chính của pháp nhân thương mại là hoạt động vì lợi nhuận, đây là mặt trực tiếp và có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự tồn tại và phát triển của pháp nhân. Đồng thời, những loại hình phạt mà BLHS năm 2015 quy định đối với pháp nhân thương mại, đã và đang được quy định là những hình thức xử lý vi phạm đối với pháp nhân thương mại trong những văn bản pháp luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012… và nhiều văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, những hình thức xử lý này chưa đủ sức răn đe, giáo dục cho nên chưa mang lại hiểu quả đấu tranh phòng ngừa cao đối với pháp nhân có hành vi vi phạm. Chính vì thế, dưới góc độ là những loại hình phạt do BLHS quy định, mang tính nghiêm khắc, cưỡng chế nhà nước cao nhất thì sẽ góp phần quan trọng vào quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm do pháp nhân gây ra một cách có hiệu quả.
Thứ sáu, một trong những bổ sung lớn nhất, thể hiện kỹ thuật và trình độ lập pháp của nước ta trong BLHS năm 2015 là các nhà lập pháp đã xây dựng riêng một chương mới - Chương XI. Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định về điều kiện, phạm vi chịu TNHS; các hình phạt và biện pháp tư pháp cụ thểáp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; việc quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn hình phạt và xóa án tích đối với pháp nhân thương mại bị kết án. Các quy định này không chỉ bảo đảm sự thống nhất chung của hệ thống pháp luật mà cònnhằm thực thi các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, bảo đảm công bằng giữa pháp nhân thương mại Việt Nam ở nước ngoài và pháp nhân thương mại nước ngoài tại Việt Nam. Cụ thể, các điều từ Điều 74 đến Điều 89, trong đó:
Một là, Điều 74 BLHS năm 2015 quy định: “Áp dụng quy định của Bộ luật hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội:Pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”, đây là quy định cụ thể hóa hơn cho quy định tại khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 về cơ sở của TNHS đối với pháp nhân.
Hai là, khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định những điều kiện cần và đủ để xác định TNHS đối với pháp nhân: “Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;
d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này”
Việc quy định những điều kiện trên, đáp ứng được nguyên tắc quy định tại Khoản 2 Điều 2, Khoản 2 Điều 8 BLHS năm 2015, tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm hoặc xử lý không đúng hành vi phạm tội gây oan sai. Những điều kiện trên cho thấy pháp nhân thương mại là một thực thể hoạt động độc lập, có quyền tự quyết định những vấn đề của mình như tinh thần mà Điều 74 BLDS năm 2015 quy định.
Điểm mới đáng lưu ý trong nội dung này, đó là tại khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”. Do vậy, trong quá trình áp dụng, giải quyết vụ án hình sự về tội có quy định TNHS của pháp nhân, trước hết, cần làm rõ các tình tiết, hành vi phạm tội và trách nhiệm của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì phải xử lý hình sự đồng thời cả cá nhân và pháp nhân về tội phạm mà họ đã thực hiện. Trường hợp phát hiện tội phạm xảy ra, mà ban đầu mới xác định được trách nhiệm của pháp nhân, thì khởi tố vụ án, khởi tố pháp nhân phạm tội, sau đó tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý hình sự cá nhân liên quan – người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bảo đảm việc xử lý TNHS đối với cá nhân, pháp nhân được toàn diện, triệt để, tránh bỏ lọt tội phạm và cá nhân, pháp nhân phạm tội.
Ba là, về phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại, loại tội mà pháp nhân phải chịu TNHS trong BLHS năm 2015:
Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại là vấn đề mới được đặt ra, do vậy việc xác định các tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHStrong BLHS 2015 thể hiện sự thận trọng, trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm và phổ biến của những hành vi vi phạm xảy ra trong thực tiễn để quy định trong BLHS nhằm xử lý hành vi phạm tội thật phù hợp. Điều 76 của BLHS năm 2015 đã quy định 31 tội danh, trong đó, 22 tội thuộc Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và 09 tội thuộc Chương XIX. Các tội phạm về môi trường, nếu phạm một trong các tội này, thì pháp nhân thương mại phải chịu TNHS. Cụ thể:
+Tại Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, BLHS năm 2015 quy định 22 tội pháp nhân phải chịu TNHS, gồm các điều luật quy định tại khoản 1 Điều 76 BLHS năm 2015:“ Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã);”
+ Tại Chương XIX. Các tội phạm về môi trường, BLHS năm 2015 quy định 09 tội mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS, gồm các điều luật quy định tại khoản 2 Điều 76 BLHS năm 2015 quy định: “Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại)”.
Đây là những tội mà thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm thời gian qua đã diễn ra rất phức tạp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và thiệt hại đối với xã hội, với nhân dân do pháp nhân gây ra là rất lớn. Đồng thời, phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ta là thành viên, như:  Công ước TOC, Công ước chống tham nhũng (Công ước UNCAC), Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, các điều ước quốc tế về chống khủng bố và chống tài trợ khủng bố,… Điểm chung trong 31 tội danh áp dụng đối với pháp nhân thương mại là quy định song song giữa TNHS của cá nhân con người phạm tội với TNHS của pháp nhân thương mại. Ví dụ, Tội hủy hoại rừng, mà theo đó,  tại các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều 243 quy định TNHS của cá nhân phạm tội khi có một trong các hành vi vi phạm mà BLHS quy định. Riêng khoản 5 Điều này quy định TNHS của pháp nhân thương mại, dựa trên những dấu hiệu pháp lý hành vi và hậu quả được quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều 243 BLHS năm 2015.
Bốn là, về hình thức hình phạt, loại hình phạt, các biện pháp tư pháp và điều kiện áp dụng đối với pháp nhân phạm tội được quy định từ Điều 77 đến Điều 82 BLHS năm 2015 gồm: phạt tiền (Điều 77), đình chỉ hoạt động có thời hạn (Điều 78), đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (Điều 79), cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định (Điều 80), cấm huy động vốn (Điều 81) và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 82).
Ngoài ra, một trong những điểm mới khác được bổ sung, sửa đổi trong BLHS năm 2015 đó là : Quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân phạm nhiều tội (Điều 86); Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với pháp nhân (Điều 87); Miễn hình phạt (Điều 88); Xóa án tích cho pháp nhân (Điều 89). Nếu so với xóa án tích đối với cá nhân thì phạm vi được xóa án tích đối với pháp nhân hẹp hơn, vì xuất phát từ tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả gây ra bởi hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại cho xã hội là rất lớn, cho nên thu hẹp phạm vi được xóa án tích cũng thể hiện được tính răn đe, nghiêm khắc trong xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Năm là, quy định về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại, tại Điều 84, Điều 85 BLHS năm 2015 và cũng tuân thủ quy định có tính nguyên tắc, đó là:“Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tình tiết tăng nặng đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc tình tiết tăng nặng trong khi quyết định hình phạt”.
 
Võ Văn Trung - Tòa án quân sự Khu vực 1 – Quân khu 9