Công nhận, cho thi hành bản án, quyết định của tòa án, phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam

26/10/2017

Cùng với việc mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế của nước ta đã và đang xuất hiện ngày một nhiều các vụ việc tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động mà một bên đương sự là công dân, pháp nhân Việt Nam; nhiều vụ án được Tòa án nước ngoài giải quyết và gửi bản án, quyết định đến Việt Nam kèm theo đơn yêu cầu công nhận và thi hành tại nước ta các bản án, quyết định đó. Thực tiễn hiện nay cho thấy, số lượng các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài cần được công nhận và thi hành tại Việt Nam ngày càng tăng. Để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, ngay tại Điều 1 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) đã có quy định: “Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài”.
Việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án, phán quyết của Trọng tài nước ngoài nhằm đảm bảo khả năng thi hành các bản án, quyết định dân sự đã được cơ quan tài phán nước ngoài tuyên cũng như đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án, tránh tình trạng về cùng một vụ việc nhưng lại bị xét xử hai lần. Đồng thời, việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án, phán quyết Trọng tài nước ngoài còn có ý nghĩa quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, pháp lý. Đây còn là một căn cứ pháp luật quan trọng để xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các yêu cầu giải quyết khi vụ việc có yếu tố nước ngoài.
Theo định nghĩa trong từ điển Luật học “Công nhận và cho thi hành bản án,quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là việc thừa nhận và cho phép thi hành bản án,quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định dân sự về hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài theo những nguyên tắc và trình tự pháp lý nhất định”.
Hoặc “Công nhân bản án dân sự của Tòa án nước ngoài có nghĩa là cho phép được coi bản án dân sự đó như là sự khẳng định các quyền và nghĩa vụ dân sự theo đúng bản án dân sự trong nước”. Một số quan điểm khác lại cho rằng công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài “Đó là một thủ tục tố tụng đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi hành án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của bản án,quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ nước mình.”
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài nhưng tựu trung lại đều thừa nhận: Kết quả công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài là sự thừa nhận và cho phép thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài có giá trị bình đẳng như các bản án quyết định của Tòa án, phán quyết của Trọng tài trong nước.
Đặc điểm pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài:
+ Chỉ được đặt ra sau khi bản án,quyết định dân sự đó đã có hiệu lực pháp luật. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt, bản án, quyết định dân sự cần phải thi hành ngay mới được xem xét cho thi hành khi bản án, quyết định dân sự về thực chất vụ việc chưa có hiệu lực.
+ Không chỉ đặt ra khi bên thi hành bản án, quyết định dân sự không tự nguyện thi hành mà trong cả những trường hợp đương sự có yêu cầu không công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự đó thì Tòa án vẫn can thiệp để quyết định công nhận và cho thi hành hay không công nhận và không cho thi hành. Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án thủ tục xem xét phải tuân theo pháp luật quốc gia nơi bản án, quyết định dân sự đó được yêu cầu. Bản án, quyết định dân sự chỉ được xem xét công nhận và cho thi hành nếu tuân thủ đầy đủ các điều kiện trong Điều ước quốc tế cũng như pháp luật quốc gia.
+Yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài có nội dung khá rộng. Nội dung tranh chấp trong bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài bao gồm các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự theo nghĩa rộng, trong lĩnh vực thương mại và tranh chấp về quyền nhân thân…Và với tư cách là một văn bản viết,  bản án,  quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài khi được công nhận hiệu lực thi hành được coi là nguồn chứng cứ, chứng minh.
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài có những ý nghĩa cơ bản sau:
+ Đảm bảo khả năng thi hành các bản án,quyết định dân sự đã được cơ quan tài phán nước ngoài tuyên cũng như đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người thi hành bản án cũng như tránh tình trạng cùng một vụ việc mà được xét xử hai lần.
+ Về phương diện chính trị, thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các quốc gia, thể hiện quyền tài phán độc lập của mỗi quốc gia cũng như thể hiện sự tôn trọng,thiện chí của quốc gia với quốc gia khác,thể hiện chính sách bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp không chỉ của cá nhân,tổ chức nước mình mà còn cả lợi ích của cá nhân,tổ chức nước ngoài.
Từ đó, một trong những biện pháp để hài hòa hóa về nội dung pháp luật chính là quy định việc xem xét, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết của Trọng tài nước ngoài giữa các quốc gia. Đây là xu thế chung của thế giới khi rất nhiều quốc gia phát triển đã tham gia các điều ước quốc tế song phương và đa phương về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết Trọng tài nước ngoài trên lãnh thổ của mình.Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết của Trọng tài nước ngoài là một nhu cầu tất yếu khi càng ngày càng có nhiều giao dịch thương mại mang tầm quốc tế. Nếu như trước đây, để bảo vệ chủ quyền của mỗi quốc gia, Tòa án các nước sẽ ngay lập tức loại trừ khả năng công nhận và thi hành bản án của một Tòa án nước khác hoặc phán quyết của Trọng tài nước ngoài, thì ngày nay, các quốc gia ngày càng có sự hợp tác chặt chẽ, tham gia hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, các quan niệm “truyền thống” thuần túy của quốc gia về vận tải, lao động, thương mại,.. chắc chắn bị “suy yếu” trước nhu cầu toàn cầu hóa. Nếu phán quyết của Trọng tài hay bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, chỉ có giá trị thi hành ở quốc gia đó, thì nền thương mại quốc tế sẽ phải chịu rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Bởi việc công nhận và thi hành bản án, phán quyết đó sẽ đem lại những lợi ích không nhỏ, đầu tiên là trong việc tiết kiệm chi phí cho các bên tham gia tố tụng và sau đó là phát triển kinh tế quốc tế nói chung. Việc công nhận, thi hành phán quyết trọng tài, bản án tòa án nước ngoài còn được xem là thúc đẩy sự thống nhất, hài hòa pháp lý. Điều này thể hiện qua việc Tòa án một nước cho phép những trật tự pháp lý, luật, quyết định, phân xử của Tòa án nước ngoài được thực thi trên đất nước mình, dựa trên nghĩa vụ quốc tế nói chung cũng như nghĩa vụ theo các Hiệp định đã được kí kết, đặt trong tổng thể với quyền lợi hợp pháp của chính cá nhân hoặc thể nhân nước mình, khi các chủ thể này tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng ở một quốc gia khác[1].
Việc công nhận, cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết Trọng tài của các nước trong khu vực cộng đồng ASEAN tại Việt Nam và ngược lại có ý nghĩa hơn khi xét đến tổng số vốn đầu tư của các nước vào nước ta. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến ngày 20/6/2017, có 3.272 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước Đông Nam Á (ASEAN) còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 63,49 tỷ USD. Đáng chú ý, trong 6 tháng năm 2017, có 127 dự án cấp mới từ các nước ASEAN vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,95 tỷ USD; Có 58 lượt dự án điều chỉnh vốn với tổng vốn đầu tư tăng thêm 587,5 triệu USD; Có 297 lượt góp vốn, mua cổ phần với tổng giá trị 529 triệu USD. Tính đến ngày 20/6/2017, có 1.183 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 11,83 tỷ USD, tăng 57,9% so với cùng kỳ năm 2016; Có 549 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm 5,14 tỷ USD, tăng 35,8% so với cùng kỳ năm 2016 và 2.501 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 2,24 tỷ USD, tăng 97,6% so với cùng kỳ 2016. Theo đối tác đầu tư, có 94 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó, Nhật Bản đứng vị trí thứ nhất với tổng vốn đầu tư 5,08 tỷ USD, chiếm 26,45% tổng vốn đầu tư. Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký 4,95 tỷ USD, chiếm 25,79% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Singapore đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,48 tỷ USD, chiếm 18,1% tổng vốn đầu tư. Theo địa bàn đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 60 tỉnh, thành phố, trong đó với dự án điện hơn 2,7 tỷ USD, Thanh Hóa là địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất với tổng số vốn đăng ký 3,06 tỷ USD, chiếm 15.9% tổng vốn đầu tư. Bắc Ninh đứng thứ hai với tổng vốn đăng ký 2,85 tỷ USD, chiếm 14,83% tổng vốn đầu tư. Nam Định đứng thứ ba với tổng số vốn đăng ký 2,19 tỷ USD chiếm 11,4% tổng vốn đầu tư[2].
Theo thống kê, hiện nay toàn bộ 10 nước thành viên ASEAN đều là thành viên của Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết Trọng tài nước ngoài (viết tắt Công ước New York). Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của Công ước này vào ngày 20/9/1995. Sau khi tham gia Công ước New York, các nước phải tuân thủ cam kết khi xem xét các đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết Trọng tài nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện để các phán quyết của Trọng tài nước ngoài có thể thi hành tại quốc gia mình khi được yêu cầu.
Ngoài ra, hiện Công ước Hague năm 2005 về thỏa thuận lựa chọn Tòa án (viết tắt Công ước Hague) ra đời vào ngày 30/6/2005 trong khuôn khổ của Hội nghị LaHaye về tư pháp quốc tế, với mục đích nhằm tăng cường hỗ trợ thương mại và đầu tư thông qua hợp tác giữa các cơ quan tư pháp các nước thành viên. Việc hợp tác giữa các cơ quan tư pháp này sẽ được thực hiện thông qua quy tắc chung về quyền tài phán và công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài trong lĩnh vực dân sự và thương mại. Thông qua việc tăng cường hợp tác này sẽ thiết lập một cơ chế luật pháp quốc tế nhằm đảm bảo hiệu lực đối với thỏa thuận của các bên trong các giao dịch thương mại thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Cụ thể hơn, với ba nguyên tắc cơ bản:
(i).Toà án của quốc gia thành viên được lựa chọn thông qua thoả thuận lựa chọn toà án độc quyền phải có nghĩa vụ thực thi thẩm quyền; 

(ii).Toà án của các quốc gia thành viên không được lựa chọn phải có nghĩa vụ từ chối thẩm quyền khi có thoả thuận lựa chọn Toà án độc quyền;
(iii).Một phán quyết được tuyên bởi Toà án được lựa chọn phải được công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ của các quốc gia thành viên khác.
Công ước Hague được kỳ vọng sẽ hỗ trợ rất lớn cho việc giải quyết các tranh chấp xuyên biên giới và được ví như Công ước New York năm1958 về lĩnh vực tư pháp quốc tế.
Hiện nay, Công ước Hague đã có hiệu lực tại 29 thành viên là quốc gia và một thành viên là tổ chức EU. Việt Nam, với việc trở thành thành viên chính thức của Hội nghị LaHay từ ngày 10/4/2013 và những quy định ghi nhận cụ thể về quyền thoả thuận lựa chọn Toà án giữa các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại BLTTDS năm 2015, tại Điều 172 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Điều 4 và Điều 260 Bộ luật Hàng hải năm 2005 (khoản 2, Điều 5 Bộ luật Hàng hải năm 2015, có hiệu lực 01/7/2017); … được xem là những cơ sở quan trọng cho việc gia nhập và trở thành thành viên chính thức của Công ước Hague. Trở thành thành viên của Công ước Hague sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp Việt Nam ở trong và ngoài nước khi họ được quyền đưa ra quyết định kinh doanh của mình tại các địa điểm giải quyết tranh chấp tiềm năng mà họ cho rằng quyền và lợi ích của họ sẽ được đảm bảo nhiều nhất; phán quyết về quyền lợi của họ có thể được thực thi ở nước ngoài (các nước là thành viên Công ước Hague) một cách dễ dàng. Ngoài ra, việc gia nhập Công ước Hague cũng sẽ có tác động rất lớn cho thị trường Việt Nam với việc tạo tâm lý an tâm hơn cho nhà đầu tư nước ngoài khi họ thực hiện được quyền thoả thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp mà họ cho là phù hợp.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày một số vấn đề mà pháp luật nước ta công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
1.Tình hình công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
Theo quy định  của BLTTDS về nguyên tắc, việc công nhận và cho thi hành có thể được thực hiện theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc là thành viên, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
       1.1. Về bản án của Tòa án nước ngoài
     1.1.1. Bản án có giá trị chung thẩm
Theo pháp luật của các nước theo hệ thống thông luật (common law) nói chung và nước Anh nói riêng, các Tòa án chỉ xem xét công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài nếu bản án đó đã là bản án chung thẩm và có hiệu lực thi hành ở nước đã tuyên bản án đó. Để một bản án được coi là chung thẩm và có hiệu lực thi hành, nó phải giải quyết được hoàn toàn tranh chấp của các bên, do đó, những quyết định chỉ giải quyết một phần quyền lợi của các bên sẽ không được coi là bản án cuối cùng. Tuy nhiên, khả năng một bản án bị kháng cáo lên Tòa án cấp cao hơn ở quốc gia nơi bản án được tuyên không có nghĩa rằng bản án không có giá trị chung thẩm. Ngoài ra, việc thủ tục xét xử phúc thẩm đang được tiến hành tại quốc gia nơi tuyên án vào thời điểm bên được tuyên thắng kiện trong vụ án ở cấp sơ thẩm yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án sơ thẩm ở một quốc gia khác không đồng nghĩa với việc bản án sơ thẩm đó bị cấm không được công nhận và cho thi hành. Tuy vậy, thông thường khi vụ việc đang được xem xét theo trình tự phúc thẩm thì Tòa án được yêu cầu thường đình chỉ thủ tục công nhận và cho thi hành đến khi vụ án đó được giải quyết xong theo trình tự phúc thẩm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 356 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì một trong những lý do từ chối công nhận bản án nước ngoài là bản án đó chưa có hiệu lực tại nước nơi bản án được tuyên. Điều  này cũng có nghĩa là Tòa án Việt Nam chỉ chấp nhận công nhận và cho thi hành những bản án đã có hiệu lực pháp luật.
     1.1.2.Bản án ấn định một khoản tiền cụ thể
Tại các nước theo hệ thống thông luật thì chỉ những bản án có ấn định một khoản tiền cụ thể được yêu cầu công nhận thi hành mới được xem xét. Những bản án đưa ra các yêu cầu khác sẽ không thuộc diện được xem xét công nhận và cho thi hành. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không có quy định về vấn đề này. Theo quy định thì Tòa án Việt Nam có thể xem xét cho công nhận những bản án thuộc diện được công nhận (theo điều ước quốc tế hoặc nguyên tắc có đi có lại) miễn là những bản án này không rơi vào trường hợp không được công nhận theo Điều 356 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Điều 356 cũng không đề cập đến trường hợp bản án có ấn định một số tiền cụ thể hay không[3].
     1.1.3. Các lý do từ chối công nhận và thi hành bản án nước ngoài
Ở nhiều nước như Anh , Singapore, việc từ chối công nhận bản án nước ngoài có thể dựa vào một số lý do sau. Thứ nhất, bản án trái với lẽ công bằng (natural justice). Đó là trường hợp bị đơn không được thông báo hợp lệ về quá trình tố tụng ở Tòa án nơi bản án được tuyên hoặc bên thua kiện không có quyền tranh tụng trước Tòa án đó.Thứ hai, bản án được tuyên qua những hành vi gian lận, cho dù bên thua kiện có đưa ra vấn đề gian lận trong quá trình tố tụng hay không.Thứ ba, bản án đó vi phạm trật tự công (public policy) của nước sở tại. Thứ tư, bản án nước ngoài trái với bản án nước sở tại đã có trước đó về cùng một vấn đề.
Theo pháp luật Việt Nam, các lý do để từ chối công nhận bao gồm:
          (i).Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định đó.
(ii).Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng mặt tại phiên toà của Toà án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ.
          (iii).Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam.
(iv).Về cùng vụ án này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam hoặc của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận hoặc trước khi cơ quan xét xử của nước ngoài thụ lý vụ án, Toà án Việt Nam đã thụ lý và đang giải quyết vụ án đó.
          (v).Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định dân sự đó hoặc theo pháp luật Việt Nam.
          (vi).Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Nhìn chung, đa số các lý do trên đều khá tương thích với luật pháp các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, trong khi phần lớn các nước sử dụng khái niệm “trật tự công” để từ chối công nhận, cho thi hành bản án, phán quyết của Tòa án nước ngoài thì luật Việt Nam sử dụng khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.  Cho đến nay, khi Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự mới đã được ban hành thì khái niệm trên vẫn chưa được làm rõ. Điều đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng công nhận, cho thi hành bản án phán quyết của Tòa án nước ngoài vì Tòa án Việt Nam có thể sử dụng lý do này để từ chối. Việt Nam có hai Hiệp định tương trợ tư pháp với Lào và Campuchia, là cơ sở pháp lý để Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành bản án phán quyết của Tòa án hai nước này trên lãnh thổ Việt Nam và ngược lại. Đồng thời, bản án phán quyết của Tòa án các nước khác có thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở có đi có lại.
       1.2.Về phán quyết trọng tài nước ngoài
Sau khi tham gia Công ước New York vào năm 1995, Việt Nam đã nội luật hóa các quy định của Công ước và đưa vào BLTTDS, làm cơ sở pháp lý cho việc công nhận phán quyết trọng tài nước ngoài. Ngoài ra, tính đến nay Việt Nam đã kí kết 18 điều ước quốc tế song phương với các nước khác về tương trợ tư pháp. Các hiệp định song phương này đều có đề cập đến việc công nhận bản án của tòa án cũng như phán quyết của trọng tài. Trong số đó, 9 hiệp định dẫn chiếu đến Công ước New York và 4 hiệp định có quy định riêng. Như vậy, phán quyết trọng tài của các nước thành viên của Công ước New York hoặc có điều ước song phương với Việt Nam đều có thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của các điều ước nói trên. Phù hợp với quy định  tại Điều VII[4] của Công ước New York, bên yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam vẫn có thể viện dẫn các quyền lợi của mình trong các hiệu định, điều ước song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết để ủng hộ việc thi hành phán quyết trọng tài.
Dù vậy, trên thực tế, tỷ lệ phán quyết trọng tài nước ngoài được công nhận tại Việt Nam còn thấp, khả năng thi hành cũng chưa cao. Một trong những nguyên nhân của kết quả nêu trên là do một số quy định của BLTTDS còn chưa tương thích với các quy định của Công  ước cũng như cam kết của Việt Nam khi gia nhập Công ước, ví dụ như khái niệm phán quyết của Trọng tài nước ngoài, thời hiệu yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ, căn cứ để từ chối dựa trên việc vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Điều này đã tạo ra tâm lý lo ngại cho cho các doanh nghiệp nước ngoài khi tiến hành các hoạt động kinh doanh, thương mại và đầu tư với các đối tác Việt Nam.

2. Một số quy định của BLTTDS năm 2015 về công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam

        2.1.Về công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài

Điều 439 BLTTDS năm 2015, quy định những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
“1. Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không đáp ứng được một trong các điều kiện để được công nhận quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật của nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định đó.
3. Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng mặt tại phiên tòa của Tòa án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ hoặc văn bản của Tòa án nước ngoài không được tống đạt cho họ trong một thời hạn hợp lý theo quy định của pháp luật của nước có Tòa án nước ngoài đó để họ thực hiện quyền tự bảo vệ.
4. Tòa án nước đã ra bản án, quyết định không có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự đó theo quy định tại Điều 440 của Bộ luật này.
5. Vụ việc dân sự này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam hoặc trước khi cơ quan xét xử của nước ngoài thụ lý vụ việc, Tòa án Việt Nam đã thụ lý và đang giải quyết vụ việc hoặc đã có bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước thứ ba đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành.
6. Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định dân sự đó hoặc theo pháp luật thi hành án dân sự của Việt Nam.
7. Việc thi hành bản án, quyết định đã bị hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành tại nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định đó.
8. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Ngoài ra, yêu cầu về tống đạt cũng được làm rõ. Việc tống đạt có được xem là hợp lệ hay không là phụ thuộc vào pháp luật của nước nơi bản án được tuyên, và yếu tố này được xét đến là để  đảm bảo quyền tự bảo vệ của đương sự. Điều này cũng tương tự như nguyên tắc về công bằng của các nước theo hệ thống thông luật khi cho rằng bị đơn phải có quyền tham gia tố tụng và tự bảo vệ một cách công bằng.
BLTTDS năm 2015 quy định cụ thể về việc cho phép đương sự trong vụ việc có yếu tố nước ngoài được lựa chọn Tòa án nước ngoài. Trong trường hợp đó, Tòa án Việt Nam nếu nhận được đơn khởi kiện của một bên thì phải trả lại đơn theo quy định của Điều 472. Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với quyền tự do lựa chọn cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp của các bên, đồng thời gián tiếp công nhận thẩm quyền của tòa án nước ngoài trong các vụ việc dân sự  có yếu tố nước ngoài. Song song đó, còn quy định trường hợp các bên thay đổi thỏa thuận lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án nước ngoài bằng thỏa thuận lựa chọn Tòa án Việt Nam, thỏa thuận lựa chọn đó bị vô hiệu hoặc không thể thực hiện được, hoặc Trọng tài hoặc Tòa án nước ngoài từ chối nhận đơn thì Tòa án Việt Nam vẫn có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, việc ghi nhận này chỉ mang tính chất gián tiếp thừa nhận quyền của các bên chứ không phải là sự ghi nhận với tư cách là một điều khoản trực tiếp điều chỉnh về quyền thoả thuận lựa chọn Toà án của các đương sự khi tham gia tố tụng. Có nghĩa là, Điều luật này vẫn chưa đưa ra cách xác định thẩm quyền của Tòa án nước ngoài khác nếu không có sự lựa chọn của các bên. Chẳng hạn, nếu theo các quy tắc xung đột luật, Tòa án một nước được trao thẩm quyền giải quyết vụ việc thì Tòa án Việt Nam có công nhận thẩm quyền đó không?. Điều 440[5] BLTTDS 2015 có đưa ra trường hợp các Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, vẫn chưa đề cập đến vấn đề sử dụng các quy tắc xung đột về thẩm quyền để xác định Tòa án có thẩm quyền trong vụ việc cụ thể. Ví dụ, nếu một vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài và thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam, bị đơn đã phản đối thẩm quyền của Tòa án nước ngoài nhưng phản đối này không có căn cứ, vậy Tòa án nước ngoài có được coi là có thẩm quyền theo pháp luật Việt Nam để bản án của Tòa án đó được công nhận và cho thi hành ở Việt Nam không?.
Ngoài ra, thủ tục công nhận bản án của Tòa án nước ngoài vẫn có những khó khăn nhất định khi thực hiện. Cụ thể, theo Điều 423 BLTTDS năm 2015 quy định bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu được điều ước quốc tế giữa nước đó với Việt Nam quy định hoặc luật pháp Việt Nam quy định được công nhận và thi hành. Tuy nhiên, ngoại trừ 18 hiệp định tương trợ tư pháp song phương với một số nước như Liên bang Nga, An-giê-ri, Ba Lan, Bê-la-rut, Hàn Quốc, Lào, Campuchia… thì Việt Nam vẫn chưa tham gia một điều ước quốc tế đa phương nào như Công ước Hague về thỏa thuận chọn Tòa án. Điều đó có nghĩa là số lượng bản án, quyết định dân sự các nước có thể được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành bị giới hạn[6].
2.2. Về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
BLTTDS năm 2015 đã đặt ra quy định riêng về thời hiệu cho trường hợp công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, theo đó, thời hiệu cho việc nộp đơn yêu cầu là 03 năm từ ngày phán quyết có hiệu lực, theo quy định tại Điều 451[7] của Bộ luật này.  
Theo Công ước New York quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên phải thi hành, BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án chỉ xem xét các chứng cứ mà bên phải thi hành cung cấp để xem liệu có căn cứ từ chối yêu cầu công nhận phán quyết Trọng tài nước ngoài hay không. Điều đó có nghĩa là nếu như bên phải thi hành không thể cung cấp được các chứng cứ phản đối hợp lý thì phán quyết phải được công nhận và cho thi hành ở Việt Nam. Bên được thi hành không phải nộp thêm bất cứ chứng cứ nào trừ những tài liệu đã được quy định cụ thể như Điều IV của Công ước New York, cũng như Điều 453 BLTTDS năm 2015. Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 còn bổ sung những quy định khác nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc giải quyết loại việc này, cụ thể, phân biệt quyết định của Trọng tài (“arbitral decision”) với phán quyết Trọng tài (“arbitral award”), mà theo đó, khoản 10 Điều 3 Luật TTTM thì: “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài”. Như vậy, một quyết định của Hội đồng trọng tài chỉ được coi là phán quyết trọng tài khi nó chứa đựng hai yếu tố, một là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp; hai là quyết định này dẫn đến chấm dứt tố tụng trọng tài. Khi một quyết định của Hội đồng trọng tài hàm chứa đủ cả hai yếu tố đó thì mới coi là phán quyết trọng tài và Tòa án mới có thẩm quyền xem xét yêu cầu hủy quyết định đó của Hội đồng trọng tài; cho phép bên được thi hành nộp đơn yêu cầu trực tiếp ra Tòa án có thẩm quyền để giảm thời gian tố tụng đối với loại việc công nhận và cho thi hành; quy định cụ thể hơn về các trường hợp đình chỉ và tạm đình chỉ xét đơn; quyết định phúc thẩm về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tuy nhiên theo các chuyên gia, BLTTDS năm 2015 vẫn chưa được giải quyết một số vấn đề tồn đọng, như:
Một là, định nghĩa về phán quyết của Trọng tài nước ngoài theo BLTTDS năm 2015 và Luật Trọng tài thương mại năm 2010 rơi vào trường hợp cả hai trường hợp “phán quyết được tuyên ở lãnh thổ nước ngoài” và “phán quyết không được coi là phán quyết trọng tài trong nước”. Bởi tại khoản 12 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: Phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn. Do đó, cho dù phán quyết của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ Việt Nam cũng không được xem là phán quyết trong nước mà phải được xem là phán quyết của Trọng tài nước ngoài và phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo BLTTDS năm 2015.
Hai là, căn cứ “vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” cũng được cho là không phù hợp với tinh thần quy định của Công ước New York. Theo Điều V[8] của Công ước New York. Thực tế, Tòa án thường vận dụng cách giải thích theo phạm vi hẹp của chính sách công quốc tế. Kể cả đối với căn cứ “các nguyên tắc cơ bản” thì thực tiễn xét xử quốc tế cùng thường chỉ chấp nhận ở mức độ pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, căn cứ này theo BLTTDS năm 2015 được hiểu theo phạm vi các nguyên tắc của pháp luật quốc gia.
Kiến nghị:

         Thứ nhất,  cần thiết quy định việc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để hỗ trợ tòa án, trọng tài nước ngoài.

BLTTDS năm 2015, quy định cho phép Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu bay để bảo đảm giải quyết vụ án dân sự tại Điều 131. Tuy nhiên, quy định này mới dừng lại ở phạm vi các vụ án đang được giải quyết tại Tòa án Việt Nam. Vấn đề đặt ra, có thể xem xét để mở rộng phạm vi thẩm quyền của Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản ở Việt Nam để hỗ trợ cả việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án nước ngoài, Trọng tài nước ngoài. Theo pháp luật trọng tài của Singapore, Hồng Kông đã có cơ chế Trọng tài viên khẩn cấp, tức là cho phép các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Trung tâm trọng tài trước khi Hội đồng trọng tài thành lập. Thiết nghĩ, pháp luật nước ta nên bổ sung các quy định cho phép áp dụng hoặc hỗ trợ thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời “tiền tố tụng” được ban hành bởi Tòa án nước ngoài và Trọng tài nước ngoài để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Thứ hai, về căn cứ vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam còn chưa thật rõ ràng và không bảo đảm sự tương thích với Công ước New York. Do đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần giải thích căn cứ này theo hướng tiếp cận với khái niệm pháp lý quốc tế - Trật tự công để bảo vệ hữu hiệu chủ quyền và an ninh quốc gia và phù hợp với trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của Việt Nam theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập hoặc các nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi về lẽ công bằng và công lý trong pháp luật quốc tế. Có thể thấy cách giải thích về khái niệm chính sách công quốc tế của mọi quốc gia theo Khuyến nghị của Hiệp hội pháp luật quốc tế (The International Law Association -ILA) năm 2002. Theo đó:
          (i).Các nguyên tắc cơ bản về công bằng và đạo đức, mà quốc gia đó muốn bảo vệ, kể cả khi khi quốc gia đó không trực tiếp liên quan
          (ii). Các quy tắc được thiết lập để phục vụ cho lợi ích kinh tế, xã hội hay chính trị của quốc gia, mà được biết với tên gọi các quy tắc về chính sách công
          (iii). Nghĩa vụ quốc gia để tôn trọng các nghĩa vụ đối với quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế
Điều 3 Luật Điều ước quốc tế năm 2016, quy định:
“1. Không trái với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế.
3. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, phù hợp với đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Tuân thủ điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Theo ý kiến của tác giả, cách giải thích này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Công ước New York.
Thứ ba, muốn được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài đó phải được tuyên bởi Toà án có thẩm quyền theo Điều 440 BLTTDS năm 2015. Thực chất các quy định này đã từng xuất hiện trong pháp luật Việt Nam và nó là các căn cứ để từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết của Toà án nước ngoài tại Điều 356 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Có thể nói, cách quy định trong BLTTDS cũ được xem là dễ hiểu, dễ áp dụng hơn bằng việc liệt kê các điều kiện để một bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Viêt Nam. Khi bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài đó, thoả mãn đầy đủ các điều kiện theo yêu cầu, nó sẽ được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành. 
 

Phạm Thị Hồng Đào 
Văn phòng luật sư Thạnh Hưng
 

 


[1] https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2017/02/08/cng-nhan-v-cho-thi-hnh-phn-quyet-cua-trong-ti-nuoc-ngoi/

[2] http://www.baomoi.com/hon-63-ty-usd-von-fdi-tu-asean-rot-vao-viet-nam/c/22669028.epi

[3] Lê Thị Nam Giang, Tư pháp Quốc tế, Nxb. ĐHQG Tp.HCM, 2010.tr.198

[4] Điều VII.1 Công ước New York: Các quy định của Công ước này không làm ảnh hưởng tới hiệu lực của các thỏa thuận đa phương hay song phương của các Quốc gia thành viên liên quan tới việc công nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài, cũng như không tước của bất kỳ bên nào liên quan quyền bên đó có thể dùng quyết định trọng tài theo cách và giới hạn được luật pháp hoặc các điều ước của nước nơi quyết định sẽ được thi hành cho phép.
 

[5] Điều 440. Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, yêu cầu
Tòa án nước ngoài đã ra bản án, quyết định mà bản án, quyết định đó đang được xem xét để công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự đó trong những trường hợp sau đây:
1. Vụ việc dân sự không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 470 của Bộ luật này;
2. Vụ việc dân sự quy định tại Điều 469 của Bộ luật này nhưng có một trong các điều kiện sau đây:
a) Bị đơn tham gia tranh tụng mà không có ý kiến phản đối thẩm quyền của Tòa án nước ngoài đó;
b) Vụ việc dân sự này chưa có bản án, quyết định của Tòa án nước thứ ba đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành;
c) Vụ việc dân sự này đã được Tòa án nước ngoài thụ lý trước khi Tòa án Việt Nam thụ lý.
 

[6]http://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=131220165210247278&MaMT
 

[7] Điều 451. Thời hạn gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành                

  1. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày phán quyết của Trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp luật, người được thi hành, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết đó đến Bộ Tư pháp Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên không quy định hoặc không có điều ước quốc tế liên quan.

  2. Trường hợp người được thi hành chứng minh được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể gửi đơn đúng thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn gửi đơn.

 

[8] Điều 5.
Việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc công nhận và thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng:
Các bên của thỏa thuận nói ở điều II, theo luật áp dụng đối với các bên, không có đủ năng lực, hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị theo luật mà các bên chịu sự điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc gia nơi ra quyết định; hoặc
Nếu bên phải thi hành quyết định không được thông báo thích đáng về việc chỉ định trọng tài viên hay về tố tụng trọng tài hoặc do một nguyên nhân gì khác không thể trình bày vụ việc của mình; hoặc Quyết định giải quyết một tranh chấp không được dự liệu trong các điều khoản của đơn yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết hay nằm ngoài các điều khoản đó, hoặc quyết định trọng tài gồm các quyết định về các vấn đề ngoài phạm vi yêu cầu xét xử bằng trọng tài, tuy nhiên, nếu các quyết định về các vấn đề được yêu cầu xét xử bằng trọng tài có thể tách rời khỏi các quyết định về các vấn đề không được yêu cầu, thì phần của quyết định trọng tài gồm các quyết định về vấn đề được yêu cầu có thể được công nhận và thi hành; hoặc
Thành phần trọng tài xét xử hoặc thủ tục xét xử trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc, nếu không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật của nước tiến hành trọng tài; hoặc
Quyết định chưa có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, hoặc bị huỷ hay đình hoãn bởi cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc theo luật của nước nơi quyết định được lập.
Việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài còn có thể bị từ chối nếu như cơ quan có thẩm quyền của nước, nơi việc công nhận và thi hành đó được yêu cầu cho rằng:
Đối tượng của vụ tranh chấp không thể giải quyết được bằng trọng tài theo luật pháp của nước đó; hoặc
Việc công nhận và thi hành quyết định sẽ trái với trật tự công cộng của nước đó.