Một số suy nghĩ về thủ tục Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở

05/10/2017
Ở nước ta hiện nay có những hình thức hòa giải khác nhau: Hòa giải tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hôn nhân và gia đình, hòa giải các tranh chấp về lao động, hòa giải bằng trọng tài thương mại, hòa giải bằng trung tâm hòa giải thương mại, hòa giải các tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật tại cộng đồng dân cư thông qua hòa giải cơ sở, hòa giải của Ủy ban nhân dân cấp xã...
Thực tiễn công tác hòa giải nói chung cho thấy, hoà giải đã góp phần giải quyết có hiệu quả các tranh chấp, xích mích, vi phạm pháp luật, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức của nhân dân cũng như của Nhà nước. Việc hòa giải thành ở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, hòa giải ở cơ sở và tại các trung tâm hòa giải theo quy định của pháp luật do các bên thỏa thuận phương án giải quyết tranh chấp và tự nguyện thi hành; trong trường hợp các bên không thi hành, thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Thực tiễn cũng cho thấy, có nhiều trường hợp các bên đương sự đã thỏa thuận được với nhau nội dung mâu thuẫn, tranh chấp nhưng sau đó một bên lại thay đổi không thực hiện nội dung đã hòa giải, vì vậy kết quả hòa giải mặc dù là thành nhưng lại không có giá trị để thi hành. Do đó, để đảm bảo giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở; từ đó hạn chế các tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết; bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; đồng thời luật hóa định hướng Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020“Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”, lần đầu tiên Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015[1] đã dành hẳn 01 chương (Chương XXXIII) quy định về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Xuất phát từ thực tiễn công tác hòa giải còn nhiều bất cập (như thực tế sẽ không tránh khỏi nhiều trường hợp vụ việc được hòa giải là tranh chấp phức tạp, các bên đưa ra những thỏa thuận trái pháp luật và đạo đức xã hội, hoặc có những trường hợp lợi dụng cơ chế này xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác...) nên mặc dù chỉ với 04 điều luật nhưng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định rất chặt chẽ về điều kiện và thủ tục để Tòa án công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, tránh cho việc ra quyết định công nhận kết quả hòa giải không đúng pháp luật. Mặt khác, với việc quy định chặt chẽ điều kiện và thủ tục để Tòa án công nhận kết quả hòa giải này sẽ giúp Ủy ban nhân dân cấp xã, trung tâm hòa giải, hòa giải viên ở cơ sở nâng cao chất lượng công tác hòa giải trong nhân dân.
Tại Điều 416 BLTTDS quy đinh, kết quả hòa giải vụ việc ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải.
Theo đó, kết quả hòa giải thành được thực hiện theo quy định của pháp luật hòa giải ở cơ sở (Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành) cũng thuộc phạm vi được Tòa án xem xét công nhận.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, với tư cách là hoạt động mang tính chất cộng đồng, thông qua hoà giải ở cơ sở, một số lượng lớn các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật đã được giải quyết kịp thời, nhanh chóng, giảm bớt khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của nhân dân. Mỗi năm ở cơ sở hoà giải thành bao nhiêu vụ việc tức là giảm được bấy nhiêu vụ việc mà các cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết. Các quyết định thoả thuận hòa giải thành của các bên thường được thi hành dứt điểm, bởi các bên tự nguyện thoả thuận với nhau về giải quyết vụ việc nên họ thường tự giác thực hiện các cam kết của mình. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, có nhiều trường hợp, cá nhân, tổ chức thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết nội dung tranh chấp, mâu thuẫn ở cấp cơ sở[2], tuy nhiên sau đó một bên thay đổi không thực hiện nội dung đã hòa giải do cho rằng nội dung thỏa thuận này chỉ được thể hiện bằng Biên bản hòa giải ở cơ sở giữa các bên, do đó chưa mang tính pháp lý và không có cơ chế buộc thi hành đối với những thỏa thuận này. Trong khi pháp luật hòa giải ở cơ sở chỉ quy định, các bên có trách nhiệm thực hiện thỏa thuận hòa giải thành.Trong quá trình thực hiện thỏa thuận hòa giải thành, nếu một bên vì sự kiện bất khả kháng không thể thực hiện được thì có trách nhiệm trao đổi, thỏa thuận với bên kia và thông báo cho hòa giải viên.Hòa giải viên có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành do mình trực tiếp giải quyết; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Trưởng ban công tác Mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện.Điều này dẫn đến việc hòa giải ở cơ sở đôi khi chỉ mang tính hình thức, thủ tục mà chưa có hiệu quả đi sâu vào việc giải quyết dứt điểm nội dung tranh chấp, mâu thuẫn giữa các bên. Vậy nên, việc pháp luật quy định kết quả hòa giải ở cơ sở có thể được Tòa án xem xét công nhận theo thủ tục việc dân sự là giải pháp quan trọng để hoạt động hòa giải ở cơ sở thật sự có hiệu quả, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác, đồng thời với việc quy định chặt chẽ điều kiện và thủ tục để Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành sẽ giúp các hòa giải viên biết và tránh việc ra quyết định công nhận hòa giải thành không đúng pháp luật; khắc phục được tình trạng các đương sự đã thỏa thuận nhưng sau đó thay đổi, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên đương sự còn lại.
Đểtạo điều kiện cho các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở thực hiện việc đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành, sau khi thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao, ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp ban hành văn bản số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tụcyêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Theo quy định tại Chương XXXIII BLTTDS, các điều khoản có liên quan quy định trong BLTTDS cũng như hướng dẫn tại Công văn số 1503/BTP-PBGDPL thì thẩm quyền, trình tự, thủ tục Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở được thực hiện như sau:
1. Về thẩm quyền công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở: Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú (nơi thường trú hoặc tạm trú), làm việc
2. Về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.
Kết quả hòa giải thành ở cơ sở được công nhận khi có các điều kiện sau:
Thứ nhất, các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Theo quy định tại Điều 20 BLDS năm 2015 thì người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên, trừ trường hợp là người bị mất năng lực hành vi dân sự quy định tại Điều 22, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành viquy định tại Điều 23 vàngười có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi quy định tại Điều 24 của Bộ luật dân sự.
- Thứ hai, các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;
- Thứ ba, nội dung thỏa thuận hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba;
- Thứ tư, một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.
3. Thủ tục yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở:
- Người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở (là một bên hoặc cả hai bên) gửi đơn đến Tòa án trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày các bên đạt được thỏa thuận  hòa giải thành.
+ Đơn yêu cầu phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
Ngày, tháng, năm làm đơn; tên Tòa án có thẩm quyền ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở; tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu; tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc nội dung thỏa thuận hòa giải thành ở cơ sở (nếu có); tên, địa chỉ của Hòa giải viên, tổ hòa giải đã tiến hành hòa giải; các thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu của mình; người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là tổ chức thì đại diện hợp pháp của tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ chức yêu cầu là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp. (Có thể tham khảo Mẫu đơn ban hành kèm theo Công văn số 1503/BTP-PBGDPL)
+  Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi văn bản về kết quả hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
Văn bản hòa giải thành gồm các nội dung chính sau đây: Căn cứ tiến hành hòa giải; thông tin cơ bản về các bên; nội dung chủ yếu của vụ, việc; diễn biến của quá trình hòa giải; thỏa thuận đạt được và giải pháp thực hiện; quyền và nghĩa vụ của các bên; phương thức, thời hạn thực hiện thỏa thuận; chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và của hòa giải viên. (Có thể tham khảo Mẫu biên bản hòa giải thành kèm theo Công văn số 1503/BTP-PBGDPL)
4. Trình tự, thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án
4.1. Thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án
- Tòa án qua bộ phận tiếp nhận đơn phải nhận đơn yêu cầu do người yêu cầu nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn; trường hợp Tòa án nhận đơn yêu cầu được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.
Khi nhận đơn yêu cầu nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người yêu cầu. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người yêu cầu. Trường hợp nhận đơn yêu cầubằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu.
Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Thẩm phán yêu cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Thủ tục sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 193 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Hết thời hạn quy định 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu mà người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ.
Trường hợp người yêu cầu thực hiện đầy đủ yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì Thẩm phán tiến hành thủ tục thụ lý việc dân sự.
* Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán thực hiện như sau:
- Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí;
- Tòa án thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc không phải nộp lệ phí thì Thẩm phán thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu.
Mức lệ phí là 300.000 đồng quy định tại Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa ánTrường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí Tòa án thực hiện theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14.
* Tòa án trả lại đơn yêu cầu trong những trường hợp sau đây:
- Người yêu cầu không có quyền yêu cầu hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
- Sự việc người yêu cầu yêu cầu đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết;
- Việc dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
- Người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn quy định;
- Người yêu cầu không nộp lệ phí trong thời hạn, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp lệ phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng[3], trở ngại khách quan[4];
-Người yêu cầu rút đơn yêu cầu;
- Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Khi trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 194 của Bộ luật tố tụng dân sự. Cụ thể:
- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn yêu cầu, người yêu cầu có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn.
- Ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán khác xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại; trường hợp đương sự vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp.
- Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc trả lại đơn, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và đương sự có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định sau đây:
+ Giữ nguyên việc trả lại đơn yêu cầu và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp;
+ Nhận lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn yêu cầu của Thẩm phán, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết.
- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn yêu cầu, Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp phải ra một trong các quyết định sau đây:
+ Giữ nguyên việc trả lại đơn yêu cầu;
+ Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ việc.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có hiệu lực thi hành và được gửi ngay cho người yêu cầu, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn yêu cầu.
- Trường hợp có căn cứ xác định quyết định giải quyết của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp nêu trên có vi phạm pháp luật thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại của đương sự, kiến nghị của Viện kiểm sát thì Chánh án phải giải quyết. Quyết định của Chánh án là quyết định cuối cùng
4.2. Thông báo thụ lý đơn yêu cầu
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu.
Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
- Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu;
- Tên, địa chỉ của đương sự;
- Những vấn đề cụ thể đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Danh mục tài liệu, chứng cứ đương sự nộp kèm theo đơn yêu cầu;
- Thời hạn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án đối với yêu cầu của người yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có);
- Hậu quả pháp lý của việc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không nộp cho Tòa án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn này, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Thời hạn mở phiên họp xét đơn yêu cầu là 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định mở phiên họp.
Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Thẩm phán được phân công xét đơn có quyền sau đây:
- Yêu cầu bên tham gia hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến về yêu cầu của người có đơn đề nghị Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành; làm rõ nội dung yêu cầu hoặc bổ sung tài liệu, nếu xét thấy cần thiết;
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền tiến hành hòa giải cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc xét đơn yêu cầu của đương sự, nếu xét thấy cần thiết.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Tòa án yêu cầu có trách nhiệm trả lời Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.
4.3. Những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.
- Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án.
Người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án hoãn phiên họp, trừ trường hợp người yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ. Trường hợp người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường hợp này, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục do Bộ luật này quy định vẫn được bảo đảm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Tòa án quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp.
4.4. Thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự
- Phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành theo trình tự sau đây:
+ Thư ký phiên họp báo cáo Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp;
+ Thẩm phán chủ tọa phiên họp khai mạc phiên họp, kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập tham gia phiên họp và căn cước của họ, giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia phiên họp;
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu, người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày về những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó;
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến về những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết việc dân sự;
+ Người làm chứng trình bày ý kiến; người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn (nếu có);
+ Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự xem xét tài liệu, chứng cứ;
+ Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết việc dân sự và gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc dân sự ngay sau khi kết thúc phiên họp;
+ Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự.
- Trường hợp có người được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp vắng mặt thì Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự cho công bố lời khai, tài liệu, chứng cứ do người đó cung cấp trước khi xem xét tài liệu, chứng cứ.
Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 417 của Bộ luật tố tụng dân sự; ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án đối với trường hợp không có đủ các điều kiện quy định tại Điều 417 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.
5. Về hiệu lực của Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án, pháp luật quy định:
- Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
- Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở.
- Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.
Từ những phân tích trên cho thấy, thẩm quyền, trình tự thủ tục công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án cũng như hiệu lực pháp lý của quyết định công nhận thỏa thuận hòa giải thành của Tòa án đã được Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định rất cụ thể, chặt chẽ, hướng dẫn tại Công văn số 1503/BTP-PBGDPL rất chi tiết. Tuy nhiên, thực tiễn sau hơn 01 năm quy định về công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án (trong đó có hòa giải ở cơ sở) có hiệu lực thi hànhcho đến nay, có một số vấn đề đặt ra cần có sự thống nhất hướng dẫn về mặt thể chế cũng như hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan có thẩm quyền; cụ thể:
Thứ nhất,trong trường hợp Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành, có 02 vấn đề đặt ra:
(i) Các bên đương sự sẽ khởi kiện theo quan hệ nào: theo nội dung thỏa thuận kết quả hòa giải thành[5] hay theo nội dung tranh chấp ban đầu khi các bên tranh chấp chưa được hòa giải ở cơ sở?
(ii) Tại Điều 184, Điều 185 Bộ luật tố tụng dân sự quy định, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
Vậy, nếu khởi kiện theo nội dung tranh chấp ban đầu khi các bên chưa được hòa giải ở cơ sở thì thời gian hòa giải ở cơ sở, thời gian yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có được tính vào thời hiệu khởi kiện hay không?
Thứ hai, theo quy định tại khoản 7 Điều 419 BLTTDS thì quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Vậy, trong trường hợp quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành rõ ràng chưa bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự, thì bên chịu “bất lợi” từ quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành đó sẽ có quyền gì để bảo bảm quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm?
  • Thứ ba,nội dung về đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong Công văn số 1503/BTP-PBGDPL có hướng dẫn như sau: “Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên, đóng dấu vào cuối đơn...”
Trong khi đó, tại khoản 3 Điều 2 Luật hòa giải ở cơ sở quy định, các bên là cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở. Như vậy, “cơ quan” không thuộc đối tượng hòa giải ở cơ sở thì làm sao có thể trở thành chủ thể làm đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
- Thứ tư, trước đây việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành ở cơ sở chủ yếu là dựa vào tinh thần trách nhiệm của các bên. Trong quá trình thực hiện thỏa thuận hòa giải thành, nếu một bên vì sự kiện bất khả kháng không thể thực hiện được thì có trách nhiệm trao đổi, thỏa thuận với bên kia và thông báo cho hòa giải viên.
Bên cạnh đó, Luật hòa giải ở cơ sở cũng quy định, hòa giải viên có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành do mình trực tiếp giải quyết; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Trưởng ban công tác Mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở, Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 và các văn bàn hướng dẫn thi hành không có bất cứ quy định chế tài về mặt pháp lý nào nếu các bên không thực hiện thỏa thuận hòa giải thành. Tuy nhiên, với sự nhiệt huyết, tinh thần trách nhiệm với công việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” của hòa giải viên, có rất, rất nhiều mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật tại cơ sở thuộc phạm vi hòa giải được hòa giải thành đã được các bên tự nguyện thi hành, góp phần đáng kể trong việc giảm tải công việc của Tòa án[6]. Nay, với quy định về việc công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án, mặc dù có thể mặt thời gian bỏ ra để giải quyết đơn yêu cầu không nhiều (do thủ tục giải quyết được quy định tương đối cụ thể, hoặc đa phần vụ việc (mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật) không quá phức tạp...), song thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc vẫn phải dành một khoảng thời gian nhất định để xem xét, nghiên cứu trước khi ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Do đó, vấn đề đặt ra nếu các bên không thiện trí trong việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành và hòa giải viên không tích cực theo dõi, hướng dẫn các bên thực hiện thỏa thuận..., đẩy vụ việc lên để Tòa án công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thànhthì vô hình chung lại làm tăng công việc cho Tòa án.
Vậy nên, theo tôi cơ quan chức năng cần có những hướng dẫn chuyên môn cụ thể về kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải cho hòa giải viên: (i) trong quá trình hòa giải để giúp các bên đưa ra những thỏa thuận hợp tình, hợp lý, tiền đề cho việc thực thi kết quả hòa giải thành sau này; (ii) giúp các bên tích cực, có trách nhiệm trong việc thực hiện kết quả hòa giải thành, tránh tình trạng kết quả hòa giải thành ở cơ sở muốn thực hiện được phải có công nhận của Tòa án có thẩm quyền.
 
 
[1]được Quốc hội khóa XIII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016
[2]là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố)
[5] Đoạn 2 khoản 6 Điều 419 BLTTDS quy định: “Việc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ngoài Tòa án”
[6] Trong 13 năm thực hiện Pháp lệnh về hòa giải năm 1998 số vụ hòa giải thành trên cả nước là 3.488.144; trong 03 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 số vụ việc hòa giải thành là 447.032.