Phòng, chống tham nhũng - kinh nghiệm của một số quốc gia và những hạn chế của pháp luật nước ta

25/09/2017

 
Tham nhũng là hiện tượng phổ biến mang tính toàn cầu. Tham nhũng và chống tham nhũng là hiện tượng xã hội đã có từ lâu trong lịch sử loài người. Đặc biệt, từ nửa cuối thế kỷ thứ XX, tham nhũng nổi lên như căn bệnh ác tính bùng phát, đe doạ cả nền kinh tế, văn hóa lẫn đạo đức của loài người, có sức tàn phá và ngăn cản rất lớn đối với sự phát triển của mọi quốc gia.Trong khoảng chừng 30 năm nay, nhiều quốc gia, nhiều khu vực đã nghiên cứu tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu, đưa ra những tuyên bố cứng rắn và mở những chiến dịch rộng rãi để ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, song hiệu quả vẫn chưa như mong đợi của sự phát triển. Mặc dù vậy, giải pháp về pháp luật phòng chống tham nhũng ở một số nước, vẫn là điểm “sáng” là kinh nghiệm hay để các quốc gia khác nghiên cứu. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến những giải pháp mà một số quốc gia đã áp dụng trong phòng, chống tham nhũng và hiệu quả mang lại khá thành công, đáp ứng mục đích yêu cầu đẩy lùi tham nhũng trên phạm vi quốc gia đó. Từ đó, có sự liên hệ đến hướng khắc phục những hạn chế mà pháp luật về phòng, chống tham nhũng của nước ta.
  1. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số quốc gia.
Qua nghiên cứu quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng của một số quốc gia trên thế giới, mà theo nhiều chuyên gia, đó là những kinh nghiệm hết sức quý báu mà Việt Nam có thể vận dụng, đó là:
Thứ nhất: Kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa với trừng trị thật nghiêm khắc.
Ở Hàn Quốc, Australia, nội dung phòng, chống tham nhũng được đưa vào giảng dạy trong hệ thống trường học để giúp học sinh ý thức được nguyên nhân, hậu quả, tác hại của việc tham nhũng và giáo dục ý thức lên án tham nhũng ngày từ khi còn nhỏ. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đẩy mạnh việc tuyên truyền phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện thông tin đại chúng, thành lập trung tâm thông tin về tham nhũng và lập quỹ chống tham nhũng… Tuy nhiên, khi những hành vi tham nhũng được điều tra làm rõ thì các hình phạt nghiêm khắc cũng được áp dụng đối với các quan chức tham nhũng, bất kể đó là ai. Kết quả của việc xử lý được công khai để nhân dân giám sát. Chính điều này đã tạo điều kiện cho cuộc chiến chống tham nhũng được tiến hành mạnh mẽ và rộng khắp.
Ở Nga, Chính phủ đã thực hiện chiến dịch “bàn tay sắt” trong cuộc chiến với nạn tham nhũng, kiên quyết xử lý những quan chức lạm quyền trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là các quan chức ở Trung ương, nhất là trong bộ máy hành pháp có hành vi tham nhũng, bao che cho tội phạm tham nhũng. Trong chiến dịch chống “tội phạm đeo quân hàm” năm 2007, hàng loạt sĩ quan, trong đó có cả những sĩ quan cấp tướng đã bị truy tố trước pháp luật. Hàng loạt các nhân vật cấp cao trong bộ máy Đảng, Chính phủ cũng bị miễn nhiệm, cách chức, truy tố vì liên quan đến tham nhũng như: Viện trưởng Viện Công tố Liên bang Vlađimia Uxtinốp; Phó Ban điều tra các vụ án đặc biệt quan trọng thuộc Cục Điều tra thi hành án Moscow Dumovets về tội nhận 0,5 triệu USD tiền hối lộ để tha bổng hai bị cáo phạm tội buôn lậu[1].
Thứ hai:  Tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở kiềm chế, đối trọng về quyền lực.
Ở Mỹ và các nước Tây Âu việc chống tham nhũng được nhấn mạnh ở khâu thể chế, tức là việc tổ chức bộ máy nhà nước sao cho các nhánh quyền lực có thể kiểm tra, giám sát lẫn nhau và thiết lập sự kiểm soát từ phía xã hội. Xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực đủ sức ngăn chặn các hành vi lạm quyền, chuyên quyền, sử dụng quyền lực vì mục đích tối đa hóa lợi ích của bản thân... Đó là các cơ chế, tam quyền phân lập nhằm kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp; tăng cường sự giám sát, phản biện xã hội của xã hội công dân đối với bộ máy nhà nước... Chính vì vậy quyền lực nhà nước luôn được đảm bảo thực thi nghiêm túc, đúng pháp luật và dân chủ. Trong khi đó, ở một số quốc gia phát triển khác ở châu Á như Hàn Quốc, Xinh-ga-po..., Chính phủ đã xây dựng một hệ thống các thiết chế kiểm soát quyền lực hết sức chặt chẽ, đó là thành lập các tổ chức độc lập thuộc cơ quan hành pháp và các bộ phận chuyên trách chống tham nhũng như: Văn phòng Tổng thống, Văn phòng Thủ tướng, Viện Kiểm toán và thanh tra, Uỷ ban giám sát tài chính, Uỷ ban chống tham nhũng, Cơ quan cảnh sát điều tra... Các cơ quan khác độc lập với cơ quan hành pháp như: Tòa án, Uỷ ban bầu cử quốc gia, Hiệp hội công dân và các cơ quan thông tin đại chúng nhằm kiểm soát quyền lực và ngăn chặn tham nhũng.
Bên cạnh việc xây dựng các cơ chế giám sát chặt chẽ, để hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng phải xây dựng đồng bộ và hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm tăng cường các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các kẽ hở tạo cơ hội để nảy sinh tham nhũng, tập trung vào việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý trong các lĩnh vực, nhất là kinh tế. Thủ tục hành chính phải bảo đảm gọn, nhẹ, dễ thực hiện, thuận lợi cho công dân. Xây dựng quy chế công chức, công vụ rõ ràng, trong đó phải xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước, tránh tạo ra đặc quyền, đặc lợi. Thủ tục giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức phải được công khai, dân chủ. Đồng thời, áp dụng các biện pháp ngăn chặn như việc giám sát thu thập, quy định kê khai tài sản của công chức. Ban hành các đạo luật nghiêm khắc trừng trị tội phạm tham nhũng, hối lộ và các tội phạm về chức vụ, quyền hạn khác. Quy định rõ các hành vi tham nhũng, hình phạt nghiêm khắc bao gồm: Xử lý về hình sự, xử lý hành chính, chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng. Bên cạnh đó, phải có các chế định pháp lý mạnh mẽ trang bị cho các cơ quan chức năng, quyền hạn lớn để độc lập trong điều tra, xử lý tham nhũng. Tạo các cơ chế kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan quản lý kinh tế, các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thứ ba: Áp dụng triệt để nguyên tắc công khai, minh bạch.
Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước vừa là một đòi hỏi khách quan của quá trình thực thi quyền lực nhà nước, vừa là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động của nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực. Nội dung, phạm vi, giới hạn của hoạt động đó được pháp luật quy định. Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước chính là bảo đảm cho các hoạt động của nhà nước nằm trong khuôn khổ pháp luật. Đây là đòi hỏi tất yếu của bất kỳ cơ quan nhà nước nào, tuy nhiên trên thực tế không đồng nghĩa với công khai hoá tất cả các hoạt động của các cơ quan nhà nước, mặc dù công khai, minh bạch là biểu hiện rõ nét nhất của qúa trình dân chủ. Bởi vậy, cần tính toán những nội dung cần công khai, minh bạch. Đối với nhiều nước trên thế giới hiện nay, những lĩnh vực, nội dung cần công khai tới người dân đó là: Công khai chi tiết thu chi ngân sách; công khai trong mua sắm tài sản công; công khai trong lĩnh vực xây dựng; công khai việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; công khai quá trình tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ cũng như việc cấp các bằng cấp… bởi đây là những lĩnh vực có khả năng dễ nảy sinh tiêu cực và tham nhũng.
Ở nhiều quốc gia phát triển như CHLB Đức, Anh, Đan Mạch, Thụy Điển, Australia… nhờ thực hiện tốt nguyên tắc này mà đã góp phần ngăn ngừa tham nhũng một cách có hiệu quả nhất. Ở Australia, theo pháp luật nước này, Chính phủ có trách nhiệm phải công khai các quy trình, thủ tục, công khai rút thăm làm thủ tục hành chính thông qua máy, mọi người đều biết thứ tự của nhau và ngăn ngừa tham nhũng do chạy chỗ, coi trọng tính công khai, minh bạch trong hoạt động đấu thầu, mua sắm tài sản công. Các cơ quan Thanh tra, Kiểm toán, Ủy ban liêm chính cảnh sát được quyền yêu cầu bắt buộc đối tượng điều tra phải cung cấp thông tin, giải trình, nếu phát hiện cung cấp sai thì có thể bị khép vào tội hình sự. Trong khi đó, luật pháp của Anh, CHLB Đức, Thụy Điển quy định, tất cả các tài liệu của Chính phủ và các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương (trừ tài liệu thuộc bí mật quốc gia) đều phải được đăng tải công khai trên báo chí và trên mạng Internet, kể cả mức lương của Thủ tướng và các Bộ trưởng; Mọi công chức nhà nước đều có quyền và trách nhiệm cung cấp các thông tin về tổ chức và hoạt động của cơ quan mình cho phóng viên báo chí và không ai được phép điều tra, tìm hiểu để xác định nguồn của các thông tin đã được đăng tải trên báo chí. Chính vì vậy, quá trình thực thi pháp luật được đảm bảo, và nạn tham nhũng không có nhiều cơ hội để tồn tại[2].
Thứ tư: Tổ chức cơ quan chuyên trách chống tham nhũng đủ mạnh, độc lập trong giám sát phát hiện và điều tra xử lý khách quan.
Nhiều quốc gia như Anh, Mỹ, CHLB Đức, Xinhgapo, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Hàn Quốc… Các nước này đã thành lập các cơ quan chuyên trách chống tham nhũng trực thuộc Tổng thống hoặc Thủ tướng, có vị trí độc lập với cơ quan hành pháp và các cơ quan khác. Người đứng đầu các cơ quan này do Tổng Thống, Thủ tướng hoặc Nhà vua bổ nhiệm, như: Cơ quan điều tra tham nhũng Xinhgapo (CPIB), là cơ quan độc lập, tách khỏi các cơ quan khác, trực thuộc Thủ tướng Chính phủ có quyền độc lập điều tra và ngăn chặn tham nhũng; ủy ban chống tham nhũng quốc gia In-đô-nê-xia-a (KPK) là cơ quan độc lập với cơ quan hành pháp, lập pháp, chịu trách nhiệm trước nhân dân và không lệ thuộc bất cứ cơ quan quyền lực nhà nước nào; Cục phòng ngừa tham nhũng Quốc gia Trung Quốc được được đặt tại Bộ Giám sát, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, có nhiệm vụ biên soạn, lập kế hoạch, thiết lập chính sách và kiểm tra, giám sát phòng, chống tham nhũng toàn quốc...
Thứ năm: Bảo đảm cơ chế giám sát của công chúng có hiệu quả.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, muốn chống tham nhũng thành công thì không thể chỉ dựa vào nỗ lực của các cơ quan nhà nước mà nhất thiết phải phát huy được vai trò, trách nhiệm và có được sự tham gia, ủng hộ tích cực của toàn xã hội; phải xây dựng được cơ chế xã hội, ở đó các cơ quan báo chí và người làm công tác báo chí có quyền độc lập, tự chủ trong việc lấy tin, viết bài và được pháp luật bảo hộ khi bị ngăn cản, can thiệp, đả kích. Khi có thông tin của xã hội và người dân, cơ quan đấu tranh chống tham nhũng có nhiệm vụ xác minh đầy đủ và kịp thời các nguồn tin chống tham nhũng trên báo chí và có trách nhiệm trong việc bảo vệ bí mật đối với người tố cáo, tố giác tội phạm. Ở Trung Quốc, đơn tố cáo, tố giác của nhân dân về tham nhũng là nguồn quan trọng nhất để từ đó phát hiện ra tội phạm. Theo thống kê có tới 80% vụ án tham nhũng khám phá được là do nhân dân, báo chí tố giác và hơn 90% là do nhân dân, báo chí cung cấp đầu mối. Nếu tội tham nhũng được phát hiện và xử lý thì người tố giác, tố cáo tội phạm được hưởng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số giá trị tài sản mà cơ quan đấu tranh chống tham nhũng thu giữ được.
Chống tham nhũng phải bắt đầu từ trên xuống dưới. Muốn trị tận gốc hiện tượng tham nhũng, cần phải bắt đầu từ lãnh đạo cấp trên, từ các cơ quan, các tổ chức có quyền hoạch định, thực thi và kiểm soát chính sách, có quyền điều phối nguồn lực và tài chính, vì rằng, đó chính là các cơ quan và cá nhân đại diện cho quyền lực của Đảng và Nhà nước, là khâu gần với các hành vi tham nhũng hơn cả. Một khi các cơ quan công quyền và đội ngũ lãnh đạo trong các tổ chức Đảng và Chính phủ đều trong sạch thì khả năng xảy ra tham nhũng càng ít. Mặt khác, nếu xử lý kịp thời và nghiêm minh hành vi tham nhũng của cán bộ lãnh đạo cấp cao thì các vụ án tham nhũng sẽ được diệt trừ tận gốc. Chống tham nhũng không thể có hiệu quả khi những người cầm quyền thiếu kiên quyết hoặc nửa vời trong việc chỉ đạo đấu tranh chống tham nhũng. Vì vậy, điều trước tiên để chống tham nhũng có hiệu quả, đòi hỏi một quyết tâm thực sự bài trừ và phòng ngừa tham nhũng của Chính phủ, của những nhà lãnh đạo cao nhất. Điều này đòi hỏi bản thân các nhà lãnh đạo phải nêu một tấm gương về sự mẫu mực, tận tụy, kiên định và trong sạch trong quá trình lãnh đạo, bởi đó sẽ trở thành gốc rễ để loại trừ tình trạng hối lộ và bảo trợ về mặt chính trị cho tham nhũng. Điển hình như ở Xinh-ga-po, Chính phủ đã thể hiện một quyết tâm chính trị rõ ràng trong đấu tranh chống tham nhũng, kiên quyết xử lý những người vi phạm, bất kể họ ở cương vị nào, ngay cả đối với người thân cận hay đã từng có cống hiến cho đất nước. Nguyên Thủ tướng Xinh-ga-po Lý Quang Diệu đã từng khẳng định, lãnh đạo tối cao của Chính phủ phải làm gương, không ai được vượt quá luật pháp, nếu không mọi người sẽ cảm thấy hoài nghi và cười nhạo đối với ý nghĩa và sự công bằng của luật pháp. Chính nhờ quyết tâm mạnh mẽ chống tham nhũng này, mà nhiều năm nay, Xinh-ga-po luôn là một trong những nước có tỷ lệ tham nhũng thấp nhất thế giới.
Cùng với việc xây dựng một quyết tâm chống tham nhũng thực sự quyết liệt, Chính phủ cần phải có những biện pháp, kế hoạch, chủ trương sáng suốt, hợp lý, phải biết thu hút, lôi cuốn nhân dân tích cực tham gia, xây dựng mặt trận chống tham nhũng rộng rãi, đấu tranh chống thói hư tật xấu của những người có chức vụ, quyền hạn. Tạo ra cơ chế dân chủ để nhân dân tố giác, phát hiện tham nhũng. Có quy định và biện pháp bảo vệ người tố cáo về hành vi tham nhũng, có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời thích đáng đối với những người có công trong việc phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng.
Thứ sáu: Có chính sách tiền lương, đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ công chức.
Một trong những nguyên nhân của tệ tham nhũng ở các nước thời gian qua là mức lương của cán bộ, công chức thấp, không đủ sống, buộc họ phải xoay sở kiếm thêm, kể cả bằng phương pháp sách nhiễu, vòi vĩnh khi có cơ hội. Chính vì vậy, một trong những biện pháp mang lại hiệu quả cao mà nhiều nước đã áp dụng trong quá trình đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đó là cải cách, điều chỉnh hệ thống tiền lương, chế độ đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ công chức, làm cho cán bộ, công chức đủ sống bằng lương. Và khi đó, nếu tham nhũng họ phải trả giá đắt khi bị phát hiện, buộc họ phải cân đo cẩn trọng hơn, vì tham nhũng lợi ít, hại nhiều - mất lương, mất việc, mất nguồn sống chính. Còn nếu lương chỉ là nguồn phụ thì họ ít đắn đo hơn và trả giá ít hơn, nên họ vẫn liều lĩnh tham nhũng. Ở các nước phát triển như: Đan Mạch, Anh, Đức... sỡ dĩ ít có tình trạng tham nhũng là bởi mức thu nhập của công chức nhà nước rất cao, làm công chức nhà nước là niềm mơ ước, tự hào đối với mọi người. Bên cạnh đó, mức xử lý đối với tội tham nhũng lại rất nghiêm minh, vì vậy, công chức nhà nước không thể tham nhũng để chấp nhận rủi ro.
Thứ bảy: Phát huy vai trò của báo chí.
Báo chí vốn là lực lượng quan trọng trong việc cung cấp các thông tin khách quan, độc lập cho xã hội để đấu tranh chống tham nhũng. Để phát huy vai trò của báo chí, các khuôn khổ pháp lý cho phép báo chí tự do tiếp cận thông tin để thực hiện vai trò giám sát xã hội đối với hoạt động của bộ máy và các quan chức. Một mặt, thể hiện sự kiểm soát của công luận, tiến hành các cuộc điều tra xã hội độc lập nhằm phát hiện những trường hợp tham nhũng. Mặt khác, nó tạo sức ép dư luận, chỉ trích các công chức và các chính trị gia tham nhũng buộc chính quyền phải xử lý, chứ không thể né tránh, làm ngơ.
Thực tế cho thấy, báo chí không chỉ có công lớn trong việc phát hiện, bóc trần các hành vi tham nhũng mà nó còn là lực lượng chủ yếu để tuyên truyền vận động nhân dân, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân trong đấu tranh chống tham nhũng. Tuyên truyền những hình mẫu về chống tham nhũng, những gương điển hình, cách làm hay trong chống tham nhũng. Báo chí thông tin kịp thời, khách quan tình hình tham nhũng, chống tham nhũng, phản ánh trực tiếp những vụ, việc tham nhũng, kể cả những vụ, việc chưa được làm sáng tỏ, tạo sức ép dư luận xã hội, hình thành các phong trào chống tham nhũng. Chính vì vậy, việc phát huy vai trò của báo chí trong đấu tranh chống tham nhũng có một ý nghĩa rất to lớn, nó giúp các cơ quan chức năng phát hiện kịp thời các hành vi tham nhũng, đưa ra ánh sáng những hiện tượng tham nhũng trong các cơ quan Nhà nước và trong các doanh nghiệp, truyền đạt tiếng nói của người dân, góp phần tạo ra sự đồng thuận của công chúng để chống tham nhũng hiệu quả hơn. Đây là một kinh nghiệm hết sức quý báu mà các nước phát triển như Mỹ, Tây Âu và nhiều quốc gia ở châu á đã áp dụng và mang lại những thành công to lớn. Ở Đan Mạch, báo chí có quyền lực rất lớn, giám sát cả ba nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp, tư pháp. Báo chí Đan Mạch, một mặt được ví như “con chó canh cửa, giữ nhà” cho tự do, dân chủ, nhân quyền của xã hội và môi trường sinh thái của đất nước. Mặt khác, được coi là “con chó săn” đào bới, tìm kiếm những sai phạm của các nhà lập pháp, hành pháp, tư pháp và công dân; ở Trung Quốc, báo chí là lực lượng xung kích trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Báo chí không chỉ có vai trò to lớn trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về chống tham nhũng mà còn giữ vai trò là tác nhân, thúc đẩy cuộc chiến chống tham nhũng phát triển sâu, rộng, tạo thành một cuộc tiến công tổng lực trên phạm vi toàn quốc.
2.Pháp luật của Trung Quốc về phòng, chống tham nhũng[3]
Trung Quốc đã lần lượt thông qua các đạo luật phòng, chống tham nhũng như: Luật Chống hối lộ năm 1988; Luật Chống tham nhũng năm 1997. Bên cạnh đó, hành vi tham nhũng còn được tội phạm hóa trong Bộ luật Hình sự (BLHS) của Trung Quốc, với 15 điều, quy định các tội về tham nhũng như: tham ô, lạm dụng công quỹ, nhận hối lộ, đưa hối lộ, không nộp quà biếu hoặc lễ vật vào công quỹ, không chứng minh được nguồn gốc tài sản, phân chia tài sản trái phép… Luật hình sự của nước này hình sự hóa một loạt các tội tham nhũng, trong đó bao gồm cả tham nhũng chủ động và thụ động trong khu vực công, tống tiền, rửa tiền và lạm dụng vị trí của công chức. Hành vi tham nhũng cấu thành tội phạm khi giá trị tài sản tham nhũng từ 10.000 nhân dân tệ trở lên. Hình phạt cao nhất được áp dụng với tội phạm tham nhũng là tử hình. Năm 1993, Trung Quốc đã ban hành Luật Cạnh tranh, quy định cả về hành vi tham nhũng trong lĩnh vực tư nhân, theo đó hành vi hối lộ của các công ty tư nhân và nhà quản lý để có được lợi thế không chính đáng là bất hợp pháp. Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, chỉ số CPI của Trung Quốc qua các năm được đánh giá là một trong những quốc gia có chính sách chống tham nhũng rất mạnh mẽ và cương quyết.
Các biện pháp phòng, chống tham nhũng có hiệu quả của Trung Quốc cần được tham khảo, đó là:
Một là, coi trọng việc giáo dục đạo đức cho công chức, phòng ngừa sự xung đột giữa lợi ích riêng và lợi ích chung.
Trung Quốc coi việc giáo dục đạo đức cho công chức là một trong những biện pháp rất quan trọng trong việc phòng, chống tham nhũng bên cạnh việc xử lý nghiêm khắc các hành vi tham nhũng. Trung Quốc đã ban hành hàng loạt văn bản quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính. Việc đề ra và thực hiện các quy định nhằm giúp công chức tránh được tình trạng phải đối đầu với xung đột giữa lợi ích riêng và lợi ích chung (nói cách khác là làm cho công chức không có cơ hội lợi dụng vị trí công tác của mình nhằm thu lợi riêng gây thiệt hại đến lợi ích chung). Theo đó, Trung Quốc quy định: cán bộ khi rời chức vụ lãnh đạo hoặc nghỉ hưu thì trong vòng 3 năm sau đó, không được kinh doanh ở những lĩnh vực có liên quan đến công việc trước đây mình phụ trách; vợ (hoặc chồng), con cán bộ lãnh đạo không được kinh doanh ở các lĩnh vực do chồng (hoặc vợ), cha mẹ mình quản lý. Từ năm 1997, Trung Quốc đã giải tán các cơ sở kinh doanh trong công an, quân đội, hải quan nhằm tránh lợi dụng quyền lực để tham nhũng.
Hai là, quy định việc kê khai tài sản của công chức và xem xét cả đơn thư nặc danh liên quan đến tham nhũng.
Tất cả công chức ở mọi vị trí đều phải kê khai tài sản của mình mỗi năm hai lần. Tất cả các nguồn thu nhập từ các nguồn khác nhau đều phải được kê khai đầy đủ. Cán bộ lãnh đạo phải kê khai rõ các khoản như: tiền tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, đồ dùng có giá trị trên 10.000 nhân dân tệ (khoảng 19 - 20 triệu đồng Việt Nam), ô tô, nhà riêng, đất đai, tranh cổ quý hiếm... Bộ Giám sát của Chính phủ theo dõi, giám sát việc kê khai và xem xét, xử lý những trường hợp có tài sản bất minh. Công chức không giải thích được nguồn gốc tài sản của mình thì bị coi là tham ô. Điều 395 BLHS Trung Quốc quy định: "Bất cứ công chức nào có tài sản vượt quá mức thu nhập và số lượng chênh lệch quá lớn thì bắt buộc phải giải trình nguồn gốc của tài sản. Nếu công chức đó không chứng minh được tài sản đó là hợp pháp thì sẽ bị kết án 5 năm tù giam và phần tài sản vượt quá mức thu nhập sẽ bị tịch thu".
Hiện nay pháp luật Trung Quốc do chưa hoàn thiện, người tố cáo còn bị đe dọa, vì vậy, cho phép người tố cáo được giấu tên và chấp nhận thư nặc danh. Trong thực tế, Trung Quốc có khoảng 60% đơn thư tố cáo là thư nặc danh và trong số đó có rất nhiều thông tin chính xác về tham nhũng. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tố giác hành vi tham nhũng, Trung Quốc đã thiết lập nhiều kênh thu thập thông tin về tham nhũng để người dân có thể dễ dàng tố giác hành vi tham nhũng. Từ năm 1988, các trung tâm tiếp nhận thông tin về tham nhũng của Viện Kiểm sát và Bộ Giám sát đã được thành lập ở tất cả các địa phương.
Ba là, xử lý nghiêm khắc các phần tử tham nhũng
Trung Quốc cho rằng, việc áp dụng các hình phạt nghiêm khắc dành cho những cá nhân có hành vi tham nhũng sẽ là một công cụ hữu hiệu để trừng phạt những người vi phạm cũng như để răn đe, giáo dục các thành viên khác trong xã hội không tham nhũng. Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, người thực hiện hành vi tham nhũng bị xử lý rất nghiêm khắc. Cụ thể là:
+ Tham ô dưới 2.000 nhân dân tệ (gần 300 đô-la Mỹ) thì bị xử lý hình sự, dưới mức đó thì xử lý ở mức hành chính.
+ Tham ô dưới 5.000 nhân dân tệ (gần 750 đô-la Mỹ) nhưng tự nguyện nộp tài sản cho Nhà nước và có hành vi ăn năn hối cải thì có thể được xét giảm trách nhiệm hình sự.
+ Tham ô từ 2.000 nhân dân tệ nhưng gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị phạt tù đến 2 năm.
+ Tham ô từ 2.000 nhân dân tệ đến 10.000 nhân dân tệ thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm.
+ Tham ô từ 50.000 nhân dân tệ trở lên, gây ảnh hưởng xấu đến chính trị, xã hội sẽ bị phạt tử hình.
Ngày 28/02/2010, Quốc hội Trung Quốc đã sửa đổi BLHS, thắt chặt hơn các quy định về chống tham nhũng. Bộ luật sửa đổi đã tăng hình phạt đối với các hành động chiếm hữu tài sản không kê khai. Điều chỉnh mới cũng tăng gấp đôi khung hình phạt tù tới 10 năm đối với các quan chức bị phát hiện chiếm hữu một số lượng lớn thu nhập hay tài sản mà họ không thể giải trình được nguồn gốc. Đáng chú ý là, BLHS của Trung Quốc còn quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong các tội về tham nhũng chứ không chỉ có trách nhiệm của cá nhân người phạm tội. Theo đó, cơ quan, tổ chức có người phạm tội về tham nhũng sẽ bị phạt tiền. Đồng thời, BLHS cũng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người trực tiếp lãnh đạo, quản lý công chức có hành vi tham nhũng.
Bốn là, phát triển chính phủ điện tử
Chính phủ điện tử là một biện pháp chống tham nhũng mới được áp dụng ở Trung Quốc nhưng các nhà lãnh đạo của quốc gia này cho rằng, chính phủ điện tử là một yếu tố quan trọng của cải cách hành chính và là một cách thức hiệu quả để tăng hiệu quả và trách nhiệm giải trình. Các trang web của Chính phủ có chứa các liên kết đến tất cả các chính quyền cấp tỉnh và thành phố. Trung Quốc có khoảng 100.000 cổng thông tin web của Chính phủ. Các nội dung trên hầu hết các trang web của Chính phủ chỉ được viết bằng ký tự tiếng Trung Quốc đơn giản. Chỉ một số trang web, bao gồm cả các trang của những thành phố lớn, được cung cấp bằng tiếng Anh. Các cổng thông tin của Chính phủ đã được tăng cường bằng cách cung cấp thông tin toàn diện, các dịch vụ tích hợp nhiều hơn giữa các ngành khác nhau, và tương tác lớn hơn giữa các quan chức chính phủ và công dân.
Nhận thức được tính chất nghiêm trọng của nạn tham nhũng, Trung Quốc luôn coi phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước.
3.Những hạn chế của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta cần hoàn thiện.
Mức độ tham nhũng ở Việt Nam, tính nan giải của nó được lý giải từ sự hạn chế của thể chế, sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức lối sống của không ít quan chức, công chức trong bộ máy, thậm chí tham nhũng có cả trong hoạt động tư pháp, trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Theo tác giả, hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta chưa cao là quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng của nước ta còn nhiều hạn chế;  “liều lượng” của các giải pháp phòng, chống tham nhũng hiện còn chưa đủ mạnh, chưa nhằm trúng khâu đột phá. Nội dung này, được thể hiện bởi mấy vấn đề sau:
Một là: Các quy định về công khai, minh bạch tài sản và thu nhập của những đối tượng thuộc diện phải kê khai chưa mang tính bao quát và thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện. Trong điều kiện hiện nay, doanh nghiệp tư nhân được xem là nguồn lực to lớn để phát triển đất nước. Trong khi đó, những người đại diện theo pháp của các loại hình doanh nghiệp này không phải là đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập. Và thực tế cho thấy, không ít vụ đưa hối lộ lớn do chính những đối tượng này thực hiện. Bên cạnh đó, luật hiện hành chưa làm rõ về nguyên tắc, hình thức, nội dung, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch. Người thuộc trách nhiệm kê khai tài sản thiếu trung thực, bởi người lãnh đạo, đứng đầu cơ quan đó không trung thực trong kê khai, nên chắc chắn rằng, việc kê khai tại cơ quan, đơn vị đó chỉ là hình thức.
Hai là: Các quy định về trách nhiệm giải trình chưa phù hợp, còn hẹp và không thường xuyên. Cụ thể là theo quy định hiện hành, việc giải trình chỉ được thực hiện khi có quyết định của cấp có thẩm quyền. Đồng thời, việc giải trình hiện nay chưa toàn diện; trình tự, thủ tục và nội dung thực hiện trách nhiệm giải trình còn chưa rõ ràng, chưa mang tính khả thi, chưa gắn với việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa khác. Đặc biệt là biện pháp về công khai, minh bạch mới chỉ bó gọn trong nội bộ cơ quan, đơn vị. Và với quy định này thì làm sao nhân dân và các tổ chức chính trị xã hội có chức năng giám sát biết được mà thực hiện chức trách cũng như nhiệm vụ của mình. Chính hạn chế này mà các cử tri là những người cầm lá phiếu bầu chọn các vị đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp không thể nào biết được người đại diện cho mình có tài sản, thu nhập như thế nào. Và một khi cử tri đã không biết thì không thể giám sát được.
Ba là: Các quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình còn chung chung chưa cụ thể, chưa rõ ràng. Thực tế trong những năm qua cho thấy có nhiều cơ quan, đơn vị mà cấp phó của người đứng đầu thực hiện hành vi tham nhũng trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao, nhưng người đứng đầu gần như vô can, nếu co thì cũng chỉ thiếu sót cần nghiêm túc rút kinh nghiệm. Dù biết rằng, nguyên tắc áp dụng pháp luật hình sự là ai làm người đó chịu, nhưng trách nhiệm của người đứng đầu thì không thể vô can. Hơn nữa, với quy định như trong luật hiện hành thì khó có thể khuyến khích được tính chủ động của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng. Chỉ chừng nào luật quy định rõ cơ chế xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu thì hiệu quả phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, đơn vị mới đạt hiệu quả cao.
Bốn là: Các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập. Đặc biệt là đối với những cá nhân có cổ phiểu ưu đãi và những cá nhân có giao dịch trên thị trường chứng khoán. Trong luật hiện hành chưa có cơ chế về việc xử lý tài sản, thu nhập không được giải trình một cách hợp lý. Đặc biệt là luật còn thiếu quy định mang tính bắt buộc về thời hạn đối với người thuộc diện phải kê khai tài sản, thu nhập thực hiện nghĩa vụ kê khai hoặc giải trình về tài sản, thu nhập của mình.
Năm là: Các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với những hành vi tham nhũng còn thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện, đặc biệt là các biện pháp bảo vệ người tố cáo, khen thưởng người có thành tích trong tố cáo tham nhũng. Chính vì vậy mà hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua chưa cao. Vì trong cơ quan, đơn vị nếu có tham nhũng xảy ra thì không người này cũng có người kia biết, nhưng họ sợ bị trả thù, bị trù dập hoặc chính họ cũng có quyền lợi trong đó.
Kiến nghị: Từ thực trạng trên, tác giả có đề xuất sau: Khi đã phát hiện tham nhũng thì phải xử phạt theo đúng quy định của pháp luật với mọi đối tượng và tuyệt nhiên không có “vùng cấm”, và có hình thức tăng nặng đối với đối tượng tham nhũng là cán bộ, công chức. Đất nước ta đã có những kinh nghiệm bổ ích. Ngay từ thế kỷ XV, dưới triều Hồng Đức (Vua Lê Thánh Tông), tại Điều 138 của Bộ Quốc triều Hình luật đã ghi: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì xử tội chém. Những bậc công thần, quý thần cùng những người có tài được giữ vào hàng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì phạt 50 quan; từ 10 đến 19 quan thì phạt từ 60 đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ và những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho[4]”. Pháp luật về chống tham nhũng của ta hiện nay, thiết nghĩ cũng cần xây dựng theo hướng, cùng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham nhũng và hậu quả gây ra là như nhau, nhưng chủ thể của tội phạm là cán bộ, công chức nhà nước mà cán bộ đó chức vụ càng lớn phải bị xử phạt nặng hơn dân thường. để nêu gương, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Bởi lẽ, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”; nếu không thì Nhân dân sẽ không phục, lòng dân sẽ không yên!
Xóa bỏ kiểu lựa chọn cơ hội, thực dụng “hạ cánh an toàn” của các công chức, quan chức. Phải làm cho tất cả mọi người ý thức rằng, đã tham nhũng thì phải bị trừng trị, dù có “hạ cánh” cũng “không an toàn”, cho dù tại vị hay đã thôi giữ chức, đã nghỉ hưu vẫn phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động và hành vi của mình, nếu bị phát hiện tham nhũng, vẫn chịu xử lý theo luật pháp.
Đồng thời áp dụng tổng hợp pháp luật - chính sách - cơ chế và chế tài theo kinh nghiệm tốt của một số nước, như: Singapore, Trung Quốc,…sao cho mọi người giác ngộ và thực hiện: không muốn tham nhũng, không dám tham nhũng và cũng không thể tham nhũng bởi hàng rào kiểm soát và sự cảnh báo trừng phạt. Trong những việc ấy, phải cải cách triệt để chế độ tiền lương và kiên quyết khoán chi công vụ theo định mức, để bảo đảm được làm cán bộ, công chức nhà nước là một hãnh diện, nhưng đồng thời phải luôn tận tâm, tận lực với công việc, với nghề, với nhân dân, với Tổ quốc.
 
Phạm Thị Hồng Đào 
 
[1] http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?option=com_content&view=article&id=284:vkshvct&catid=108:ctc20072&Itemid=110
[2] http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/81/498
[3] http://antg.cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-antg/Kinh-nghiem-dau-tranh-chong-tham-nhung-cua-Dang-Cong-san-Trung-Quoc-284450/
[4] Quốc triều Hình luật, Luật triều Lê, Luật Hồng Đức. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.74 - 75.