Pháp luật về luật sư, tổ chức hành nghề luật sư và những kiến nghị hoàn thiện

10/07/2017
Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012 – viết tắt Luật Luật sư năm 2012), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013. Sự ra đời của Luật Luật sư, luật của một tổ chức xã hội - nghề nghiệp cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta đối với nghề luật sư, quy định về nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hành nghề, tiêu chuẩn, quyền, nghĩa vụ của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư,… tạo cơ sở pháp lý cho các luật sư và tổ chức hành nghề luật sư thực hiện nhiệm vụ rất nặng nề. góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân chủ, công bằng, văn minh.
Pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở nước ta cũng dần được hoàn thiện, tuy đã có đóng góp tích cực cho sự phát triển của nghề luật sư nhưng thực tế cho thấy, một số quy định của Luật Luật sư năm 2012 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập chưa đồng bộ với các quy định khác trong hệ thống pháp luật, như Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Doanh nghiệp năm 2014;… Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến những vướng mắc từ quy định của Luật Luật sư hiện hành và đề xuất hướng hoàn thiện một số nội dung nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất trong chỉnh thể hệ thống pháp luật nói chung, với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Thứ nhất: Tại Điều 32 Luật Luật sư năm 2012, quy định: 
“1. Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm:
a) Văn phòng luật sư;
b) Công ty luật.
2. Tổ chức hành nghề luật sư được tổ chức, hoạt động theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Về cơ cấu tổ chức văn phòng luật sư, được quy định tại Điều 33 của Luật này, như sau:
“1. Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Luật sư thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Trưởng văn phòng là người đại diện theo pháp luật của văn phòng.
2. Tên của văn phòng luật sư do luật sư lựa chọn và theo quy định của Luật doanh nghiệp nhưng phải bao gồm cụm từ “văn phòng luật sư”, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề luật sư khác đã được đăng ký hoạt động, không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
3. Văn phòng luật sư có con dấu, tài khoản theo quy định của pháp luật.”
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 34 Luật Luật sư hiện hành, tổ chức hành nghề luật sư với tên gọi Công ty luật, bao gồm, công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do ít nhất hai luật sư thành lập. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu. Các thành viên công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên thỏa thuận cử một thành viên làm Giám đốc công ty. Luật sư làm chủ sở hữu công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Giám đốc công ty.
Như vậy Văn phòng luật sư và Công ty Luật đều là hình thức tổ chức hành nghề luật sư và có các quyền như nhau được quy định tại Điều 39 Luật này, như: Thực hiện dịch vụ pháp lý; Nhận thù lao từ khách hàng; Thuê luật sư Việt Nam, luật sư nước ngoài và nhân viên làm việc cho tổ chức hành nghề luật sư.....
Trước đây, theo Điều 84 BLDS năm 2005; Luật Doanh nghiệp năm 2005, thì chỉ có công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân còn doanh nghiệp tư nhân thì không có tư cách pháp nhân. Về cơ bản việc có tư cách pháp nhân sẽ tách bạch tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp với pháp nhân là doanh nghiệp đó còn doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân thì không có sự tách bạch này. Vì vậy doanh nghiệp có tư cách pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn còn doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân thì phải chịu trách nhiệm vô hạn. Có nghĩa khi doanh nghiệp phá sản thì chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm giới hạn với phần vốn mà mình bỏ vào doanh nghiệp. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân ngoài khoản tiền đầu tư kinh doanh thì chủ sở hữu còn phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản mình có. Doanh nghiệp tư nhân không phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp mà chỉ cần đóng thuế thu nhập cá nhân của chủ doanh nghiệp đó là một lợi thế nhưng đổi lại thi nhiều rủi ro hơn.
Xoay quanh việc xác định tư cách pháp nhân của tổ chức hành nghề luật sư là Văn phòng luật sư, hiện có các ý kiến chưa thống nhất. Cụ thể:
+Ý kiến thứ nhất cho rằng, Văn phòng luật sư có tư cách pháp nhân, bởi, do Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập và quản lý; hoạt động theo quy định của pháp luật về luật sư; có con dấu và tài khoản riêng;… các nghĩa vụ về thuế được áp dụng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Mà theo đó, Văn phòng luật sư vẫn phải tổ chức hạch toán kế toán và chịu chi phối của các sắc thuế hiện hành đối với doanh nghiệp tư nhân. Điều đó, đồng nghĩa với Văn phòng luật sư cũng phải kê khai thuế theo quy định; nộp thuế môn bài, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác có liên quan.
Riêng về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Văn phòng luật sư, có những điểm cần lưu ý sau: Theo quy định tại điểm 47, Phần VIII, Danh mục B, Phụ lục I (Ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư ), quy định: Những lĩnh vực sản xuất và dịch vụ khác được hưởng ưu đãi đầu tư, bao gồm: Tư vấn pháp luật, dịch vụ tư vấn về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Theo đó, văn phòng luật sư hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý tố tụng; tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng; dịch vụ pháp lý khác thì thu nhập của hoạt động tư vấn pháp luật được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với thời gian ưu đãi là 02 năm và giảm 50% số thuế phải nộp cho 03 năm tiếp theo. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của hoạt động tư vấn pháp luật là 20% áp dụng trong thời gian là 10 năm, kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động.
Theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013); Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (thay thế Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp) và tiểu mục 1.1, mục 1, phần A Thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (được sửa đổi, bổ sung Thông tư 18/2011/TT-BTC ngày 10/02/2011 của Bộ Tài chính, về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, mà theo đó, người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế (sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm:: Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán, Luật Dầu khí, Luật Thương mại và các văn bản pháp luật khác dưới các hình thức: Công ty cổ phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn;  Công ty hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân; Doanh nghiệp Nhà nước; Văn phòng Luật sư, Văn phòng công chứng tư; Các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh; Các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên doanh dầu khí, Công ty điều hành chung.”. Như vậy, quy định Văn phòng luật sư được áp dụng chính sách thuế đối với doanh nghiệp tư nhân, nên thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Sau khi Văn phòng luật sư nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thì thu nhập còn lại thuộc về Trưởng văn phòng và không phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập còn lại.
+Ý kiến thứ hai, Văn phòng luật sư không có tư cách pháp nhân, vì theo quy định tại Điều 84 BLDS năm 2005, Văn phòng luật sư tuy là tổ chức xã hội – nghề nghiệp, được thành lập hợp pháp, nhưng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của pháp nhân, như: không có tài sản độc lập đối với cá nhân (Trưởng văn phòng, luật sư thành viên và cá nhân khác); không có tài sản tách bạch với Văn phòng luật sư, do vậy, văn phòng luật sư phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng chính tài sản của các nhân.
Hiện nay, theo quy định của BLDS năm 2015, chỉ còn hai loại chủ thể tham gia quan hệ dân sự là cá nhânpháp nhân. Còn những chủ thể như hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, văn phòng luật sư và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, do vậy, không là chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Đã là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự thì phải có đầy đủ quyền, nghĩa vụ chủ thể, phải chịu trách nhiệm về việc tham gia quan hệ dân sự của mình. Vì vậy, chỉ có cá nhân và pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Qua tổng kết thi hành BLDS năm 2005 cho thấy, sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác trong quan hệ dân sự thường được thực hiện thông qua các thành viên cụ thể, nhưng sự tham gia vào giao dịch dân sự của các chủ thể này còn rất nhiều vướng mắc. Khi có tranh chấp thì Tòa án cũng không thể quy trách nhiệm chung của hộ gia đình, tổ hợp tác mà đều phải thông qua chủ thể là cá nhân.
Thuật ngữ “pháp nhân” dùng để phân biệt chủ thể pháp luật là tổ chức với cá nhân. Nếu một tổ chức có tư cách pháp nhân thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của pháp nhân mà pháp luật quy định.
Theo quy định tại Điều 74 BLDS năm 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi thỏa mãn 4 dấu hiệu sau:
Một là, pháp nhân phải được thành lập hợp pháp. Một pháp nhân được thành lập hợp pháp khi được pháp luật cho phép hoặc thừa nhận, nói cách khác là phải được thành lập theo trình tự, thủ tục luật định. Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ, chức năng của một tổ chức mà Nhà nước bằng pháp luật công nhận tổ chức đó là pháp nhân thông qua các hình thức: Cơ quan có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận thành lập. Tính hợp pháp của pháp nhân giúp pháp nhân đó tham gia các quan hệ pháp luật và tồn tại dưới sự kiểm soát, đảm bảo của Nhà nước nhằm phù hợp với ý chí của Nhà nước đó. Do đó, tổ chức thành lập không hợp pháp thì không được coi là pháp nhân.
Hai là, pháp nhân phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Tổ chức là tập hợp nhiều người có cùng chung mục đích, lợi ích… được thành lập với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể nhằm thực hiện một mục đích nào đó. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ giúp cho pháp nhân trở thành một thể thống nhất, vận hành, hoạt động một cách có hiệu quả. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nghĩa là pháp nhân phải có sự sắp xếp, phân bổ nguồn nhân lực vào các bộ phận thuộc cơ cấu của tổ chức đó và quy định cho từng bộ phận đó những chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong Điều lệ.
Ba là, pháp nhân phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Giống như các chủ thể dân sự khác, để có thể thực hiện các quyền và gánh vác nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ dân sự, pháp nhân cần phải có một khối lượng tài sản nhất định. Và tài sản của pháp nhân nhất thiết phải có sự tách bạch rõ ràng, độc lập, tức là pháp nhân có đầy đủ ba quyền năng của quyền sở hữu, đó là, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt để không chịu sự chi phối ràng buộc của bất kỳ ai, nhằm đảm bảo tư cách chủ thể của pháp nhân. Mặt khác, để thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể, pháp luật đã quy định pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm bằng khối tài sản đó. Trách nhiệm của pháp nhân khi vi phạm nghĩa vụ không thể do một cơ quan, tổ chức khác gánh vác và các thành viên của pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của mình đã góp (trừ trường hợp công ty hợp danh) vào pháp nhân. Đây cũng là một yếu tố để phân biệt pháp nhân với thể nhân.
Bốn là, pháp nhân nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Điều kiện này xuất phát từ việc tách bách tài sản (tài sản độc lập) với các cá nhân, tổ chức khác. Với việc sở hữu một khối tài sản riêng, pháp nhân có đủ khả năng để hưởng, tự mình thực hiện các quyền và chịu nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ dân sự. Mặt khác, các chủ thể thành lập pháp nhân khi thành lập đã chuyển quyền sở hữu những tài sản mà mình muốn vào khối tài sản chung, do vậy, cần có một sự thống nhất về mặt ý chí trong việc sử dụng khối tài sản đó. Dựa trên tiêu chí này, pháp luật đã “trừu tượng hóa” điều đó thành “ý chí” của pháp nhân, tức là trao cho pháp nhân một tư cách để pháp nhân “nhân danh” chính mình tham gia các quan hệ dân sự.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp 2014: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.”. Như vậy đối với doanh nghiệp tư nhân, tài sản của chủ doanh nghiệp không tách bạch với khối tài sản của doanh nghiệp, trách nhiệm của chủ doanh nghiệp không được giới hạn. Từ đó, suy ra, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Đối với các tổ chức không có tư cách pháp nhân, theo quy định tại BLDS năm 2015, không phải là chủ thể của quan hệ dân sự, do đó, không đủ điều kiện là chủ thể độc lập tham gia quan hệ mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán mà bản chất là quan hệ hợp đồng mở và sử dụng tài khoản thanh toán. Như vậy, có thể nói việc hạn chế chủ thể tham gia giao dịch mở, sử dụng tài khoản thanh toán chỉ bao gồm cá nhân, pháp nhân đã được quy định tại BLDS năm 2015. Từ quy định này, Ngân hàng nhà nước ban hành quy định về đối tượng mở, sử dụng tài khoản thanh toán tại Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 26/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 23/2014/TT-NHNN ngày 19/08/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán là phù hợp với quy định về chủ thể của quan hệ dân sự trong BLDS năm 2015.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2014:“Trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của Luật đó.”. Nghiên cứu Luật Luật sư năm 2012, cho thấy: Việc đăng ký hoạt động, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, cung cấp thông tin về nội dung đăng ký hoạt động, công bố nội dung đăng ký hoạt động, thành lập chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư; hợp nhất, sáp nhập, tạm ngưng, chấm dứt hoạt động và chuyển đổi hình thức tổ chức hành nghề luật sư;… được quy định khá cụ thể.
Như vậy, đối chiếu với các quy định của pháp luật vừa nêu, văn phòng luật sư sẽ không còn được xem là doanh nghiệp tư nhân, không có tư cách pháp nhân, do đó, cũng không được mở tài khoản riêng, nghĩa là, quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật Luật sư hiện hành Văn phòng luật sư có tài khoản theo quy định của pháp luật sẽ mặc nhiên không còn giá trị áp dụng! Bởi theo quy định tại khoản 3 Điều Điều 4 BLDS năm 2015: “Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định định của Bộ luật này được áp dụng.”. Hơn nữa, tại khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.”
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng ngay cả khi cơ quan thuế có thể chấp nhận các chứng từ, thủ tục thuế đối với tài khoản mang tên cá nhân như tài khoản của văn phòng luật sư, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh… thì vẫn còn một số vướng mắc việc sử dụng tài khoản ngân hàng mang tên cá nhân. Bởi lẽ, với loại hình tổ chức hành nghề luật sư là Văn phong luật sư, mà theo đó, một văn phòng luật sư có thể có nhiều luật sư cùng làm việc chứ không chỉ có một luật sư tiếp cận khách hàng. Do vậy, khi mà các cộng sự của mình làm việc với khách hàng, tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng tại Tòa án với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; …  với tư cách là cộng sự của một văn phòng luật sư nhưng khi khách hàng thanh toán chi phí và thù lao thì lại thanh toán tiền vào tài khoản mang tên cá nhân của luật sư được giao vụ việc thì không “ổn”. 
Đồng thời, cũng cần xem lại việc có cần thiết giữ nguyên cụm từ “quy định khác của pháp luật có liên quan” tại khoản 2 Điều 32 Luật Luật sư hiện hành, vì nội dung này đã bị quy định tại Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2014 “phủ nhận”! Từ những suy nghĩ đó, để hệ thống pháp luật thật sự là một chỉnh thể thống nhất, chắc chắc rằng một số quy định tại Điều 32 Luật Luật sư hiện hành cần được rà soát sửa đổi cho phù hợp.
Thứ hai: Công ty luật hợp danh có tư cách pháp nhân không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Luật Luật sư năm 2012, Công ty luật hợp danh do ít nhất hai luật sư thành lập (thành viên hợp danh). Công ty luật hợp danh không có thành viên góp vốn (thành viên góp vốn). Cũng theo quy định tại Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2013, thì tổ chức hành nghề luật sư là Công ty luật hợp danh không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này. Nhưng hiên tại, Luật Luật sư hiện hành chưa có quy định nào điều chỉnh về việc góp vốn của thành viên hợp danh, trường hợp có thành viên hợp danh không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết gây thiệt hại cho công ty luật hợp danh thì có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Công ty? Tại thời điểm góp đủ vốn như đã cam kết, thành viên hợp danh có được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp? Giấy chứng nhận phần vốn góp phải có các nội dung gì?... Tài sản của công ty luật hợp danh bao gồm những tài sản nào? Đặc biệt, cũng không có quy định nào cho thấy, Công ty luật hợp danh có tư cách pháp nhân.
Xét từ góc độ lợi ích của thành viên hợp danh, thì sự tồn tại của tư cách pháp nhân của công ty luật hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm vô hạn không mang lại lợi ích lớn, ở một chừng mực nào đó, nó còn là sự “cản trở”. Ở nhiều nước khác, do việc xác định hợp danh là sự liên kết của hai hay nhiều người cùng hùn vốn, tạo tài sản chung, chia sẻ quyền điều hành, cùng chịu lỗ hưởng lãi nên pháp luật đề cao sự thỏa thuận, không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh. Với điều kiện như vậy, pháp luật nhiều nước không đánh thuế thu nhập đối với công ty hợp danh, từng thành viên chịu thuế với phần thu nhập cá nhân của riêng mình. Lợi ích của những cá nhân tham gia vào hợp danh thông thường là những cá nhân này sẽ không phải chịu thuế hai lần (double taxation). Khác với loại hình hợp danh ở các nước khác, công ty luật hợp danh ở  nước ta do có tư cách pháp nhân nên đương nhiên phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận sau thuế chia cho thành viên hợp danh phải bị đánh thuế một lần nữa. Lợi ích của các thành viên rõ ràng là bị ảnh hưởng lớn, trong khi họ đồng thời phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty luật hợp danh của mình. Chế độ này được hiểu là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Cụ thể hơn, đối với những khoản nợ của Công ty, thành viên hợp danh có nghĩa vụ chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của Công ty nếu tài sản của Công ty không đủ để trang trải số nợ đó. Như vậy, thành viên hợp danh sẽ phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, không kể là tài sản đã chuyển quyền sở hữu cho Công ty luật hợp danh hay tài sản của cá nhân không đưa vào tài sản công ty.
Nghiên cứu thêm quy định về Công ty hợp danh tại Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014, mà theo đó, Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a) Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn;
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Về tài sản của công ty hợp danh, được quy định tại Điều 174 Luật này, bao gồm:
-Tài sản góp vốn của các thành viên đã được chuyển quyền sở hữu cho công ty;
-Tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ các hoạt động kinh doanh của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện;
Từ những quy định trên có thể thấy, mặc dù khoản 2 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014, khẳng định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân, nhưng xem xét các đặc điểm mà Luật Doanh nghiệp quy định cho loại hình doanh nghiệp này thì có thể thấy công ty hợp doanh chưa thực sự đáp ứng các điều kiện của một pháp nhân theo quy định tại Điều 73 BLDS năm 2015.
Mặc dù Luật có quy định khi góp thành lập công ty hợp danh phải tiến hành chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn nhưng lại quy định thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn với các nghĩa vụ tài sản của Công ty. Hơn nữa, trong quy định về tài sản của công ty hợp danh bao gồm cả tài sản có được do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện. Như vậy, xem xét việc quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhận chưa thực sự chuẩn xác theo các điều kiện mà BLDS năm 2015 quy định. Hơn nữa trong tương quan với BLDS năm 2015, thì Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Luật sư hiện hành là luật chuyên ngành nên sẽ phải ưu tiên áp dụng quy định của luật chuyên ngành.
Thứ ba: Cần thay đổi một số cụm từ cấp “Giấy chứng nhận bào chữa”, “Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” cho tương thích với các quy định mới
Nếu như trước đây, để được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa,  Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, quy định mọi trường hợp phải được cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải quyết vụ án cấp Giấy chứng nhận bào chữa; Về việc cấp Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, được quy định tại Điều 18 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân ân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS); Theo Luật Tố tụng hành chính (Luật TTHC) năm 2010, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Toà án chấp nhận tham gia tố tụng. Họ phải được Tòa án cấp Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Để thực hiện nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng trong xét xử”, theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 61 Luật TTHC năm 2015: “Khi đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đề nghị phải xuất trình …”; “ trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”; Khoản 1, khoản 4 Điều 78 BLTTHS năm 2015, quy định: “Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa”; Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa...”; Theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 75 BLTTDS  năm 2015, để được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi có yêu cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nếu là luật sư thì phải xuất trình các giấy tờ theo quy định của Luật Luật sư hiện hành. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Như vậy, theo quy định mới, thay vì cấp Giấy chứng nhận bào chữa, Tòa án thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa; thay vì cấp Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì Tòa án xác nhận vào Giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có xác nhận của Tòa án là giấy tờ chứng minh tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong một vụ án cụ thể.
Tuy nhiên, theo một số quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), như: cấp Giấy chứng nhận bào chữa; cấp Giấy chứng nhận bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không còn phù hợp với những nội dung quy định mới của BLTTHS năm 2015; BLTTDS năm 2015 và Luật TTHC năm 2015. Do vậy, để phù hợp và tương thích với các quy định tương ứng về nội dung đã trình bày có liên quan đến Luật sư khi họ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, được quy định tại các Bộ luật, luật như đã đề cập, tác giả đề xuất sửa đổi quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 Luật Luật sư hiện hành, theo hướng thay các cụm từ “cấp Giấy chứng nhận bào chữa”; “cấp Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” bằng các cụm từ “đăng ký bào chữa”; “thông báo người bào chữa”; “đăng ký người bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Đồng thời bỏ đoạn quy định tại ý 3, điểm b khoản 3“Chậm nhất là ba ngày làm việc hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ, kể từ khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư, trong đó cho phép người tập sự hành nghề luật sư tham gia vụ việc (nếu có); trong trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật tố tụng.”. Sau khi được sửa đổi, Điều 27 Luật Luật sư hiện hành được viết lại, như sau:
“Điều 27. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư
1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này.
 2. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng. Cơ quan tiến hành tố tụng xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Trong trường hợp người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư hướng dẫn trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này thì khi liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức, luật sư hướng dẫn xuất trình Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giấy tờ xác nhận có sự đồng ý của khách hàng.
3. Khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp người bị buộc tội từ chối hoặc yêu cầu thay đổi luật sư hoặc luật sư không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Khi đăng ký bào chữa, luật sư phải xuất trình các giấy tờ sau:
a) Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực;
b) Giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội hoặc văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân trong trường hợp tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp thực hiện trợ giúp pháp lý.
Trong trường hợp người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư hướng dẫn trong vụ án hình sự theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này thì khi đăng ký bào chữa, luật sư hướng dẫn gửi kèm theo Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giấy tờ xác nhận có sự đồng ý của khách hàng đến cơ quan tiến hành tố tụng để đề nghị cho phép người tập sự được đi cùng luật sư hướng dẫn.
Khi cần liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức để thực hiện quyền, nghĩa vụ và các hoạt động có liên quan đến việc bào chữa trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và văn bản thông báo người bào chữa mà cơ quan tiến hành tố tụng vụ án đã cấp.
Thứ tư: Về quy định tại khoản 3 Điều 19 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), quy định: Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa.”
Việc Nhà nước không miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm của người bào chữa xuất phát từ mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng. Trong một số trường hợp người bào chữa vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi không tố giác tội phạm của chính người mà mình bào chữa, nếu biết rõ hành vi phạm tội đó trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa. Như vậy, khi thông qua BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Quốc hội đã có sự điều chỉnh hợp lý hơn chính sách này theo hướng thu hẹp một phần phạm vi trách nhiệm hình sự của người bào chữa so với công dân khác trong việc không tố giác tội phạm. Theo đó, về nguyên tắc, với tư cách là công dân, người bào chữa có nghĩa vụ bình đẳng như mọi công dân khác trong việc tố giác tội phạm. Nguyên tắc này đã được Hiến pháp ghi nhận và được thể chế hóa trong các luật về tư pháp từ trước đến nay.
Nhưng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 25 Luật Luật sư hiện hành, một trong những hành vi bị nghiêm cấm, đó là: “Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;”. Luật sư­ có nghĩa vụ bảo đảm bí mật nghề nghiệp đối với thân chủ của mình trong mọi lĩnh vực dư­ới bất kỳ hình thức nào. Những thông tin trao đổi giữa các luật sư­, dù là bằng lời hay trên giấy tờ, phải đ­ược đảm bảo bí mật, không ai có quyền tiết lộ. Chính vì vậy, những cuộc trao đổi giữa các luật sư­ dù không đ­i đến một kết quả nào cũng không thể đư­ợc tiết lộ.
Như vậy, rõ ràng quy định hiện hành vừa nêu của Luật Luật sư chưa thật sự tương thích, đồng bộ với nội quy định tại khoản 3 Điều 19 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Để tạo sự thống nhất, tương thích trong hệ thống pháp luật, điểm c khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng, bắt buộc người bào chữa phải trình báo với các cơ quan chức năng thuộc trường hợp các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa. Sau khi được sửa đổi, bổ sung, điểm c khoản 1 Điều 19 và khoản 1 Điều 25 Luật Luật sư hiện hành được viết lại, như sau:
Điều 9. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Nghiêm cấm luật sư thực hiện các hành vi sau đây:

c) Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản, trừ trường hợp các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa;”
Điều 25. Bí mật thông tin
1. Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản,  hoặc là các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa;”
Thứ năm: Sửa đổi khoản 1, khoản 2 Điều 22 Luật Luật sư hiện hành, theo hướng thay thế cụm từ “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”;” người bị hại” bằng cụm từ “người bị buộc tội”; “bị hại”. Bổ sung vào khoản 2 Điều 22 Luật Luật sư hiện hành, cụm từ “người khởi kiện”; “người bị kiện” để tạo sự thống nhất về tên gọi của các chủ thể tham gia tố tụng và đúng với khái niệm “người bị buộc tội” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 và khái niệm “đương sự” quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật TTHC năm 2015. Cụ thể, khoản 1 và 2 Điều 22 Luật Luật sư hiện hành, sau khi được sửa đổi, bổ sung có thể được viết lại như sau:
“1. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc tội hoặc là người bảo vệ quyền lợi của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
2. Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; người đại diện hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, người bị kiện trong vụ án hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.”
Thứ sáu: Theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật Luật sư hiện hành: “. Trong thời gian tạm ngừng hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư phải nộp đủ số thuế còn nợ, tiếp tục thanh toán các khoản nợ khác, hoàn thành việc thực hiện hợp đồng đã ký với người lao động, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng nhưng chưa thực hiện xong thì phải thỏa thuận với khách hàng về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đó.”.
Do luật không quy định bắt buộc việc thỏa thuận giữa tổ chức hành nghề luật sư với khách hành về hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký, nhưng chưa thực hiện xong, trước khi tổ chức hành nghề luật sư báo cáo bằng văn bản gửi đến Sở Tư pháp; Đoàn luật sư ở địa phương nơi đăng ký hoạt động và nơi có trụ sở của chi nhánh, do vậy, thực tiễn phát sinh tình huống rắc rối, mà theo đó, tổ chức hành nghề luật sư đã gửi văn bản báo cáo đến các cơ quan theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật Luật sư, về việc tạm ngưng hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, nhưng còn “vướng” là sự thỏa thuận với khách hàng về hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký trước đó (theo khoản 4 Điều 46), không thành. Điều đó cũng có nghĩa, luật sư thành viên thuộc tổ chức hành nghề luật sư không thể chuyển giao vụ, việc mà mình đã nhận cho luật sư khác làm thay theo khoản 3 Điều 24 Luật Luật sư hiện hành. Khách hàng vẫn tiếp tục yêu cầu Luật sư thuộc tổ chức hành nghề luật sư đã ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, và như vậy, nếu không muốn xảy ra tranh chấp, tổ chức hành nghề luật sư đó vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp dịch vụ pháp lý cho đến khi có kết quả xét xử giám đốc thẩm như đã cam kết. Trường hợp này sẽ dẫn đến mâu thuẫn, đó là, về mặt pháp lý, tổ chức hành nghề luật sư đã tạm ngưng hoạt động, nhưng thực chất về danh nghĩa, tổ chức hành nghề luật sư đó vẫn còn đang hoạt động! bởi lẽ, do tổ chức hành nghề luật sư không đạt được sự thỏa thuận về việc không tiếp tục thực hiện dịch vụ pháp lý, cũng không thể gia hạn hợp đồng dịch vụ pháp lý, vì thời hạn tố tụng giải quyết vụ án ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm pháp luật tố tụng đã quy định chặt chẽ. Do vậy, để vừa không ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của khách hàng, vừa tuân thủ đúng quy định của pháp luật, theo quan điểm nghiên cứu của tác giả, pháp luật cần quy định nội dung này chặt chẽ hơn theo hướng, trước khi tổ chức hành nghề luật sư báo cáo với các cơ quan, tổ chức về việc tạm ngưng hoạt động, thì mọi hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng phải được giải quyết xong, trừ trường hợp có sự đồng ý của khách hàng.
          Từ đó, theo tác giả, sau khi sửa đổi, Điều 46 Luật Luật sư hiện hành được viết lại, như sau:
Điều 46. Tạm ngừng hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
1. Tổ chức hành nghề luật sư có quyền tạm ngừng hoạt động nhưng phải báo cáo bằng văn bản về việc tạm ngừng và tiếp tục hoạt động với Sở Tư pháp, cơ quan thuế, cơ quan thống kê, Đoàn luật sư ở địa phương nơi đăng ký hoạt động và nơi có trụ sở của chi nhánh, chậm nhất là mười ngày làm việc trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục hoạt động. Thời gian tạm ngừng hoạt động không quá hai năm.
2. Báo cáo về việc tạm ngừng hoạt động có những nội dung chính sau đây:
a) Tên tổ chức hành nghề luật sư;
b) Số, ngày, tháng, năm cấp Giấy đăng ký hoạt động;
c) Địa chỉ trụ sở;
d) Thời gian tạm ngừng hoạt động, ngày bắt đầu và ngày kết thúc thời hạn tạm ngừng hoạt động;
đ) Lý do tạm ngừng hoạt động;
e) Báo cáo về việc thanh toán nợ, hợp đồng lao động đã ký với luật sư, nhân viên của tổ chức hành nghề luật sư.
f) Kết quả giải quyết các hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng. Đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng nhưng chưa thực hiện xong thì phải đạt được thỏa thuận với khách hàng về việc không tiếp tục thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đó trong thời gian tạm ngưng hoạt động.
3. Sở Tư pháp có quyền yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư tạm ngừng hoạt động khi phát hiện tổ chức hành nghề luật sư đó không có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật.
4. Trong thời gian tạm ngừng hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư phải nộp đủ số thuế còn nợ, tiếp tục thanh toán các khoản nợ khác, hoàn thành việc thực hiện hợp đồng đã ký với người lao động, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
5. Trong trường hợp tổ chức hành nghề luật sư tạm ngừng hoạt động thì các chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư đó cũng phải tạm ngừng hoạt động.”
Thứ bảy: Theo quy định tại khoản 2 Điều 41 Luật Luật sư năm 2012: “…Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh, tổ chức hành nghề luật sư phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh cho Sở Tư pháp, Đoàn luật sư ở địa phương nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động và Đoàn luật sư ở địa phương nơi có trụ sở của chi nhánh.”.
Qua nghiên cứu, người viết thấy có điểm bất hợp lý trong quy định này, đó là, Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh, tổ chức hành nghề luật sư do Sở Tư pháp nơi có trụ sở của chi nhánh cấp. Khi cấp, theo quy định phải có 01 bản lưu tại Sở Tư pháp. Nhưng theo quy định tại điều luật vừa trích dẫn, tổ chức hành nghề luật sư phải gửi bản sao Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh thuộc tổ chức hành nghề luật sư của mình về nơi cấp ( Sở Tư pháp). Quy định này, theo tác giả là không cần thiết, chỉ làm thêm “nặng gánh”  thủ tục hành chính mà thôi. Do vậy, để hợp lý hơn, tác giả đề suất sửa đổi quy định này theo hướng bỏ cụm từ “Sở Tư pháp” trong nội dung quy định trên. Nếu được như vậy, đoạn 4 của khoản 2 Điều 41 Luật Luật sư hiện hành được viết lại, như sau: Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh, tổ chức hành nghề luật sư phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh cho Đoàn luật sư ở địa phương nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động và Đoàn luật sư ở địa phương nơi có trụ sở của chi nhánh
Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 37 Luật này quy định: “Tổ chức, cá nhân được quyền yêu cầu Sở Tư pháp cung cấp thông tin về nội dung đăng ký hoạt động; cấp bản sao Giấy đăng ký hoạt động, chứng nhận thay đổi nội dung đăng ký hoạt động hoặc trích lục nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư và phải trả phí theo quy định của pháp luật.”. Như vậy, theo quy định này, tổ chức, cá nhân không có quyền yêu cầu Sơ Tư pháp cấp bản sao Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh, tổ chức hàng nghề luật sư. Vậy để thực hiện đúng quy định tại khoản 2 Điều 41 Luật Luật sư hiện hành, Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư được sao y và có chứng thực theo quy định tại nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ, về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
Theo tác giả, để giảm bớt thời gian dành cho thủ tục hành chính cho người dân nói chung, đối với tổ chức hành nghề luật sư nói riêng, về cấp bản sao giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nên chăng quy định tổ chức, cá nhân được quyền yêu cầu Sở Tư pháp nơi đã cấp giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư, cấp bản sao. Do vậy, người viết đề nghị sửa đổi, bổ sung nội dung này vào khoản 2 Điều 37 Luật Luật sư hiện hành. Sau khi được sửa đổi, bổ sung, khoản 2 Điều 37 được viết lại như sau: Tổ chức, cá nhân được quyền yêu cầu Sở Tư pháp cung cấp thông tin về nội dung đăng ký hoạt động; cấp bản sao Giấy đăng ký hoạt động, Giấy đăng ký của chi nhánh, chứng nhận thay đổi nội dung đăng ký hoạt động hoặc trích lục nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư và phải trả phí theo quy định của pháp luật.”.
Thứ tám: Về thủ tục thành lập văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư, theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Thông tư số 172011/TT-BTP ngày 14/10/2011 của Bộ Tư pháp, hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư, Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, quy định:“ Tổ chức hành nghề luật sư muốn thành lập văn phòng giao dịch gửi hồ sơ đến Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động. Hồ sơ gồm có:
a) Văn bản thông báo về việc thành lập văn phòng giao dịch;
b) Quyết định thành lập văn phòng giao dịch, trong đó ghi rõ người được tổ chức hành nghề luật sư phân công thường trực tại văn phòng giao dịch để tiếp nhận yêu cầu về vụ, việc của khách hàng, kèm theo bản sao chứng minh nhân dân của người đó;
c) Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư;
d) Bản sao giấy tờ chứng minh trụ sở của văn phòng giao dịch.”
Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3  Điều 38 Luật Căn cước công dân năm 2014 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016):
“2.Chứng minh nhân dân đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn theo quy định; khi công dân có yêu cầu thì được đổi sang thẻ Căn cước công dân.
3.Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ Chứng minh nhân dân vẫn nguyên hiệu lực pháp luật”
Để phù hợp và thống nhất với những quy định vửa trích dẫn, thiết nghĩ quy định về bản sao chứng minh nhân dân tại điểm b khoản 1 Điều 10 Thông tư 17/2011/TT-BTP cần bổ sung cụm từ “Thẻ căn cước công dân, Hộ chiếu” cho tương thích với quy định của Luật Căn cước công dân năm 2014. Sau khi được sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 10 Thông tư 17/2011/TT-BTP được viết lại như sau: “Quyết định thành lập văn phòng giao dịch, trong đó ghi rõ người được tổ chức hành nghề luật sư phân công thường trực tại văn phòng giao dịch để tiếp nhận yêu cầu về vụ, việc của khách hàng, kèm theo bản sao chứng minh nhân dân hoặc Thẻ căn cước công dân hoặc Hộ chiếu của người đó;”
 
Ths.LS Lê Văn Sua