Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và kiến nghị

09/09/2016
Miễn trách nhiệm hình sự (viết tắt TNHS) là một chế định được quy định trong luật hình sự Việt Nam. Trước hết để hiểu rõ nội dung của miễn TNHS cần phải làm rõ nội dung TNHS. TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý mà người phạm tội phải chịu trước Nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện. TNHS do Tòa án - Nhân danh Nhà nước áp dụng và được thể hiện bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật cũng như hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với người phạm tội ghi trong bản án đó. Như vậy cơ sở của TNHS phải là hành vi phạm tội của người phạm tội và TNHS chỉ có thể do Tòa án - Nhân danh Nhà nước, áp dụng. Thời điểm mà người phạm tội phải chịu TNHS là thời điểm bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp bản án kết tội của Tòa án có tuyên hình phạt đối với người phạm tội thì TNHS mà người phạm tội phải chịu không chỉ thể hiện ở bán án kết tội mà Tòa án đã tuyên mà còn thể hiện ở việc người phạm tội phải chịu sự cưỡng chế chấp hành hình phạt, nếu họ không tự nguyện chấp hành theo quy định. Trong những trường hợp vì những lý do đáng được khoan hồng đặc biệt, mặc dù Tòa án kết tội nhưng trong bản án kết tội lại tuyên miễn hình phạt đối với người phạm tội thì TNHS mà người phạm tội phải chịu chỉ giới hạn ở phạm vi bị kết tội, tức là bị sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà người đó thực hiện thông qua bản án kết tội của Tòa án.
1. Cơ sở pháp lý chế định miễn trách nhiệm hình sự
Cơ sở của miễn TNHS cũng xuất phát từ cơ sở của TNHS, tức là hành vi phạm tội của người phạm tội, song do có những điều kiện mà luật định để có thể được miễn TNHS nên người phạm tội trong trường hợp đó được miễn TNHS. Như vậy, miễn TNHS chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội. Không thể miễn TNHS đối với người không phạm tội hoặc không đủ căn cứ để xác định được hành vi của người đó là hành vi phạm tội.
Tại Điều 29 BLHS năm 2015, các căn cứ miễn TNHS được quy định như sau:
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
So với quy định tại Điều 25 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Điều 29 BLHS năm 2015 đã quy định về căn cứ miễn TNHS theo hướng chi tiết hơn và cụ thể hơn rất nhiều. Cụ thể, khoản 1 Điều 29 BLHS năm 2015 quy định người phạm tội được miễn TNHS khi có một trong hai căn cứ sau: 
Thứ nhất là khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. 
Thứ hai là khi có quyết định đại xá. Như vậy, gặp hai trường hợp này, cơ quan tố tụng bắt buộc phải miễn TNHS cho người phạm tội.
Khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015 quy định người phạm tội có thể được miễn TNHS (không bắt buộc) khi có một trong ba căn cứ: 
Thứ nhất là khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. 
Thứ hai là khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
Thứ ba là người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước xã hội thừa nhận. Riêng căn cứ thứ ba này, cần hết sức chú ý đến các liên từ “và” mà nhà làm luật đã “sắp xếp” một cách rất khoa học, theo hướng khi áp dụng vào thực tiễn phải bảo đảm sự chặt chẽ các “điều kiện” được đặt ra. Như vậy, khi gặp một trong ba trường hợp này, cơ quan tố tụng có thể được miễn TNHS cho người phạm tội.
Một trường hợp khác mà cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể miễn TNHS được quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015, đó là: Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS.
Miễn TNHS là một trong những chế định quan trọng trong luật hình sự nước ta, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng khái niệm miễn TNHS vẫn chưa được nhà làm luật nước ta ghi nhận chính thức trong pháp luật hình sự thực định. Vì vậy, xung quanh khái niệm này, trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau, chẳng hạn:
Trong bài viết Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 25 BLHS năm 1999, của tác giả Lê Cảm, đăng trên Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 1/2001:  “Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó”.
Tại Chương IV – Trách nhiệm hình sự, trong quyển Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, trang 109, PGS.TS Trần Văn Độ, có viết: “Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn những hậu quả pháp lý về các tội phạm đối với người thực hiện tội phạm khi có những điều kiện theo quy định của pháp luật”.
Theo quan điểm của tác giả Lê Thị Sơn, trong quyển Trách nhiệm hình sự và hình phạt, thì “Miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có nghĩa là miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và đương nhiên kéo theo cả miễn phải chịu các hậu quả tiếp theo do việc thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước đem lại như: miễn bị kết tội, miễn phải chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị mang án tích. Trên thực tế có thể có trường hợp người phạm tội được Tòa án miễn trách nhiệm hình sự trong giai đoạn xét xử. Trong trường hợp này, miễn trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm miễn chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn mang án tích
Như vậy, về cơ bản tất cả các quan điểm trên, khái niệm miễn TNHS đều hợp lý, tương đối ngắn gọn và điều quan trọng là thống nhất trong việc khẳng định rõ được nội dung và bản chất pháp lý của nó.
2. Các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự
Thứ nhất, miễn TNHS là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. Và chỉ có thể được đặt ra đối với người nào là chủ thể của chính tội phạm ấy, đồng thời phải đáp ứng đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện trong từng trường hợp mà pháp luật hình sự hiện hành quy định, cũng như tuỳ thuộc vào từng trường hợp miễn TNHS đó là tuỳ nghi (lựa chọn) hay bắt buộc. Bởi lẽ, ngay cả trường hợp khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện quy định trong điều luật, nhưng nếu trường hợp đó là tuỳ nghi (lựa chọn) thì việc có áp dụng hay không áp dụng miễn trách nhiệm hình sự đều do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định.
Thứ hai, miễn TNHS do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định phải được thể hiện bằng văn bản. Cụ thể, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra (bằng văn bản) khi có căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (viết tắt BLTTHS). Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án (bằng văn bản) khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 248 BLTTHS năm 2015 hoặc rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án  theo Điều 285 BLTTHS năm 2015. Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 282 BLTTHS năm 2015.
Thứ ba, phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn TNHS chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý hồ sơ vụ án. Cụ thể, đó là cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án (các điều 230, 285 và 282 BLTTHS năm 2015), và tất nhiên phải đáp ứng đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định.
Thứ tư, miễn TNHS luôn gắn liền và quan hệ chặt chẽ với chế định TNHS trong luật hình sự Việt Nam. Khái niệm và cơ sở của miễn TNHS cũng xuất phát từ khái niệm và cơ sở của TNHS. Theo đó, hiểu một cách chung nhất thì trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu do đã thực hiện hành vi phạm tội và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với họ một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do luật hình sự quy định. Còn miễn TNHS có nghĩa không buộc người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội đó mà lẽ ra nếu không có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định để được miễn TNHS, thì người đó phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự.
Ngoài ra, miễn TNHS và TNHS lại có cùng một cơ sở – đó là, việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” . Trong cả hai trường hợp này, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm đều là người phạm tội. Nói cách khác, chủ thể là người thực hiện tội phạm, có lỗi, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Tuy nhiên, người phạm tội là người phải chịu TNHS, còn người được miễn TNHS (cũng là người phạm tội) nhưng trường hợp phạm tội của họ lại có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện để được miễn TNHS theo quy định của pháp luật hình sự. Điều đó có nghĩa, trường hợp xét thấy không cần phải áp dụng TNHS đối với người phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, có căn cứ chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng của người phạm tội, thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền cho họ được miễn TNHS.
Thứ năm, người được miễn TNHS đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện (như: không bị truy cứu TNHS, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi là có án tích và không bị coi là có tội). Thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn TNHS vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động, như: buộc phải phục hồi lại tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt hại… theo quy định của pháp luật dân sự; phạt tiền, cảnh cáo hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật hành chính; đình chỉ hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động) hoặc biện pháp kỷ luật…
Thứ sáu, miễn TNHS đối với người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS, không chỉ thể hiện sự khoan dung nhân đạo sâu sắc của chính sách hình sự của Nhà nước ta, mà còn làm giảm “áp lực”, cường độ áp dụng TNHS và hình phạt khi có căn cứ pháp lý và những điều kiện cho phép miễn TNHS.
3. Các trường hợp được miễn, có thể được miễn TNHS theo quy định của BLHS năm 2015 và kiến nghị
3.1. Các trường hợp được miễn TNHS
Theo quy định của BLHS năm 2015, trong các trường hợp sau đây, người phạm tội được miễn TNHS:
-Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm (đoạn 2 Điều 16).
-Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm a khoản 1 Điều 29);
-Khi có quyết định đại xá[1] (điểm b khoản 1 Điều 29).
-Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn TNHS (khoản 4 Điều 110).
Khi có đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để xác định rằng người phạm tội thuộc một trong bốn trường hợp này thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải miễn TNHS cho họ.
Khoản 1 Điều 27 BLHS năm 2015 quy định: “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu TNHS”. Những trường hợp không bị truy cứu TNHS do đã hết thời hiệu được quy định tại khoản 2 Điều 27 BLHS năm 2015 là những trường hợp mà lẽ ra người phạm tội phải chịu TNHS (vì có cơ sở của TNHS) nhưng Nhà nước quy định là không truy cứu TNHS đối với họ thể hiện tính nhân đạo của pháp luật vì qua một thời hạn nhất định họ đã không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, không cần thiết phải áp dụng biện pháp cưỡng chế của luật hình sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 155, điểm b khoản 1 Điều 230, khoản 1 Điều 248 và Điều 282 của BLTTHS năm 2015, thì những vụ án hình sự (về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS năm 2015) đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết; nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên toà sơ thẩm, thì vụ án phải được đình chỉ (trừ trường hợp người rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức). Trong trường hợp này, thực chất Nhà nước cũng không truy cứu TNHS với người đã phạm tội.
Miễn TNHS là việc không buộc người phạm tội phải chịu TNHS mà lẽ ra họ phải gánh chịu hậu quả pháp lý hình sự do việc thực hiện tội phạm. Do đó, tất cả những trường hợp mà Nhà nước không truy cứu TNHS mặc dù đã có hành vi phạm tội đều thuộc trường hợp miễn TNHS. Vì vậy, theo quan điểm của người viết, cần bổ sung thêm điểm c vào khoản 1 Điều 29 BLHS năm 2015 về miễn TNHS cho “Những trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu TNHS và những trường hợp đã khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại nhưng bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà sơ thẩm”.
3.2. Các trường hợp có thể được miễn TNHS
Theo quy định của BLHS năm 2015, trong các trường hợp sau đây, người phạm tội có thể được miễn TNHS:
-Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm a khoản 2 Điều 29);
-Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm b khoản 2 Điều 29);
-Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận (điểm c khoản 2 Điều 29);
-Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 3 Điều 29);
- Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này (điểm a khoản 2 Điều 90);
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này (điểm b khoản 2 Điều 90);
+Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án (điểm c khoản 2 Điều 90).
+ Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt (khoản 2 Điều 390 BLHS).
Qua nghiên cứu người viết thấy rằng, điểm a khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015, nhà làm luật lại quy định có tính “mở” với trường hợp có thể được miễn TNHS “do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Quy định này, theo quan điểm nghiên cứu của người viết chẳng khác gì so với quy định mang tính chung chung của khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Dù khái niệm “chuyển biến của tình hình” trong chế định miễn TNHS chưa được nhà làm luật đưa vào quy định của BLHS hoặc được giải thích bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng cụm từ “do chuyển biến của tình hình” được hiểu là chính sách về pháp luật hình sự có sự thay đổi theo hướng không còn quy định hành vi sai trái đang bị điều tra, truy tố, xét xử là tội phạm nữa. Ví dụ: Theo BLHS năm 1985, hành vi trộm cắp tài sản trị giá từ 500.000 đồng trở lên là đã có thể truy cứu TNHS. Tuy nhiên, với quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), trị giá tài sản bị trộm cắp phải từ 2 triệu đồng trở lên thì mới bị truy cứu TNHS. Sau Khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 được áp dụng, người trộm cắp từ 500.000 đồng đến dưới 2 triệu đồng mà đang bị điều tra, truy tố, xét xử theo BLHS năm 1985 sẽ đương nhiên được miễn TNHS theo khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999.Tuy đã hơn 15 năm, kể từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành cho đến nay, cơ quan nhà nước cũng chưa có ban hành văn bản cụ thể hướng dẫn thống nhất về nhận thức tình tiết này, và cũng chính từ sự không kịp thời này, nhiều cơ quan tố tụng đã áp dụng tình tiết này để không phải bồi thường cho người bị oan trong trường hợp không chứng minh được tội phạm và tất nhiên cũng không loại trừ  trường hợp, cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể vận dụng tùy tiện quy định này để bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Các trường hợp có thể được miễn TNHS được quy định trong các điểm, khoản của các điều luật vừa nêu, qua nghiên cứu thấy rằng tính chất pháp lý của các trường hợp này khác nhau. Quy định tại khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015 là quy định chung cho mọi tội phạm và người phạm tội (gọi tắt là quy định chung). Xét về logic thì bất cứ tội phạm nào, người phạm tội nào nếu thoả mãn các tình tiết được quy định ở đây thì đều có thể được miễn TNHS không kể tội phạm đó là loại tội phạm nào, tội danh gì. Riêng tại khoản 3 Điều 29 của Bộ luật này, nhà làm luật đã “giới hạn” trong những trường hợp khi và chỉ khi thỏa mãn quy định, thì mới có thể xem xét việc miễn TNHS. Tuy nhiên, để đạt được sự thống nhất về nhận thức và tránh bị lạm dụng khi áp dụng vào thực tiễn, cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn. Chẳng hạn với trường hợp, người thực hiện  tội phạm nghiêm trọng do lỗi vô ý gây thiệt hại về tính mạng và tài sản của bị hại được 2/3 hoặc 3/5 người đại diện của bị hại tự nguyện hòa giải, thống nhất phần bồi thường thiệt hại và đề nghị miễn TNHS, thì có thể được miễn TNHS không?
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 90, khoản 2 Điều 390  BLHS năm 2015 quy định cho những trường hợp cụ thể để áp dụng cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, nhưng trừ các trường hợp được liệt kê tại điểm a khoản 2 của Điều này; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015, trừ những trường hợp quy định tại điềm b khoản 2 Điều 90; người dưới 18 tuổi là đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể; Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể được miễn TNHS. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy sẽ có không ít trường hợp dù người phạm tội thuộc một trong các trường hợp có thể được miễn TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 90 BLHS năm 2015, vừa thỏa mãn cả một trong các quy định tại khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015, nhưng họ cũng vẫn chỉ có thể được miễn TNHS. Rõ ràng, như vậy là chưa đảm bảo tính công bằng, hợp lý và chưa thực sự khuyến khích người phạm tội thuộc trường hợp vừa đề cập có thể yên tâm về khả năng được miễn TNHS để họ ra tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm.
Do đó, theo quan điểm của tác giả cần bổ sung thêm điểm d vào khoản 1 Điều 29 BLHS, quy định: “Nếu vừa cùng thoả mãn một trong những tình tiết nêu tại khoản 2 Điều 29 và một trong những tình tiết quy định tại các điềm a, b, c khoản 2 Điều 90 hoặc quy định tại khoản 2 Điều 390 của Bộ luật này thì người phạm tội được miễn TNHS”.
Như vậy, sau khi bổ sung, Điều 29 BLHS năm 2015, được viết lại như sau:
“1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
c) Nếu vừa cùng thoả mãn một trong những tình tiết nêu tại khoản 2 Điều 29 và một trong những tình tiết quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 Điều 90 hoặc quy định tại khoản 2 Điều 390 của Bộ luật này;
d) Những trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu TNHS và những trường hợp đã khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại nhưng người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà sơ thẩm.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”
ThS. Lê Văn Sua - Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang
 
[1] Đại xá được hiểu là một biện pháp khoan hồng của Nhà nước nhằm tha tội hoàn toàn và triệt để cho một số loại tội phạm nhất định đối với hàng loạt người phạm tội. Quốc hội có thẩm quyền ban hành quyết định đại xá, thường vào những dịp quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước