Phát triển luật sư công: Sứ mệnh và Tầm nhìn - Bài cuối

17/06/2025
Phát triển luật sư công: Sứ mệnh và Tầm nhìn - Bài cuối
​Nghị quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, có định hướng: "Nghiên cứu hình thành cơ chế có điều kiện cho phép viên chức được hành nghề luật sư". Trong Tờ trình "Đề án nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay", Bộ Tư pháp cũng đã đề cập nội dung này. Tuy nhiên, nhiều ý kiến băn khoăn phải có cơ chế chặt chẽ để viên chức làm luật sư công vừa đúng bổn phận "công bộc", vừa tròn vai nhà cung cấp dịch vụ pháp lý.
LTS: Năm 2006, khái niệm luật sư công lần đầu tiên được nhắc đến khi Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An khi đó đã đề nghị tiếp tục nghiên cứu thêm, bởi Luật Trợ giúp pháp lý được dự thảo và ban hành chỉ trong 06 tháng nên chế định luật sư công trong dự thảo Luật chưa có thời gian để nghiên cứu sâu, kịp ban hành ngay trong thời điểm năm 2006.

Mới đây nhất, ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã yêu cầu: “Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công và cơ chế có điều kiện cho phép viên chức được hành nghề luật sư”.
 
Bài cuối: Những băn khoăn khi viên chức trở thành luật sư công
 
​Giảng viên là viên chức có thể trở thành luật sư công

Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới được ban hành vào ngày 30/04/2025 đã đưa ra yêu cầu: "Nghiên cứu hình thành cơ chế có điều kiện cho phép viên chức được hành nghề luật sư". Có thể nói nội dung này được Bộ Chính trị đưa ra nhằm mục đích yêu cầu các cơ quan lập pháp phải "Đổi mới tư duy, định hướng xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển".

Tiếp thu ý kiến chỉ đạo từ Nghị quyết số 66-NQ/TW, trong "Đề án nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay", Bộ Tư pháp đã đề nghị một trong những nguồn để trở thành luật sư công là: "Viên chức làm việc tại các cơ sở đào tạo luật chuyên ngành được cấp chứng chỉ luật sư công". Đây có thể coi là một bước đột phá trong quá trình xây dựng hành lang pháp lý cho luật sư công.
 
Luật sư Dương Thị Thanh Bình - Văn phòng Luật sư Trang Nguyễn cho rằng việc cho phép viên chức trở thành luật sư công sẽ có nhiều lợi ích. 

Theo Luật sư Dương Thị Thanh Bình, việc cho phép đội ngũ viên chức, công chức làm việc tại các trung tâm đào tạo, giảng dạy có thể được trở thành luật sư công làm việc trong các cơ quan Nhà nước là một đề án tiến bộ, không để “lãng phí nhân tài”. Vì đây là đội ngũ có chuyên môn sâu trong lĩnh vực pháp luật. Đồng thời, còn tạo điều kiện để đội ngũ này được góp sức vào công cuộc đổi mới, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, còn nhiều lợi ích từ ích từ việc đội ngũ viên chức là giảng viên luật tham gia vào hành nghề luật sư. Thứ nhất, việc tham gia hành nghề luật sư giúp cho các giảng viên có cơ hội nâng cao kiến thức thực tiễn. Việc tham gia thực tế vào các hoạt động tư pháp giúp cho những giảng viên này cải thiện chất lượng giảng dạy cho các sinh viên luật. Thực tế hiện nay tại các cơ sở đào tạo cử nhân luật, luật sư vẫn mời các luật sư đang hoạt động nghề thực tiễn về giảng dạy. Điều này giúp cho chất lượng đào tạo được nâng cao và thu hút sinh viên.

Thứ hai, đội ngũ luật sư công là giảng viên luật sẽ nắm chắc các kiến thức hàn lâm về hành lang pháp lý, điều này giúp cho việc thực hiện các nhiệm vụ của luật sư công sẽ được đảm bảo hoàn thành ở chất lượng cao.

Thứ ba, việc đội ngũ viên chức là giảng viên được tham gia hành nghề luật sư sẽ đóng góp vào uy tín và sự phát triển của chính ngôi trường hoặc khoa luật mà họ đang công tác. Cả nước hiện đang có hàng chục nghìn luật sư, việc được lựa chọn để trở thành luật sư công sẽ giúp khẳng định được tài năng của bản thân giảng viên đó nói chung và ngôi trường mà người đó đang giảng dạy nói riêng.

Tại một phiên thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Luật sư 2012, vấn đề viên chức là giảng viên có thể được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư hay không đã làm "nóng" nghị trường. Khi đó, bên cạnh những ý kiến phản đối cũng có rất nhiều đại biểu đồng tình với việc viên chức là giảng viên luật được hành nghề luật sư.

Điển hình như, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khi đó là Đại biểu Quốc hội Đoàn Bắc Giang cho rằng, với phương châm là học đi đôi với hành, giảng viên đại học khi dạy một nghề nào đó thì có nên tham gia vào hành nghề thực tiễn của nghề đó. Những người giảng dạy luật nếu đạt các trình độ, học các bồi dưỡng nghiệp vụ luật sư mà dám nhận làm luật sư thì đấy là rất có ích cho nghề.

Ông Nguyễn Thiện Nhân đưa ra giải pháp, nếu có thể thì chúng ta cho phép giảng viên hành nghề luật sư, nhưng có điều kiện. Nhà trường có thể quy định quỹ thời gian dành cho nghiên cứu, giảng dạy bao nhiêu và thời gian làm công tác tư vấn không vượt quá quy định. Theo đó, các trường đại học có thể đưa ra quy định phải có nhận xét với những giảng viên tham gia làm luật sư. Nếu không hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy thì trường đình chỉ không cho hành nghề. Và phải quy định 5 năm giảng dạy trở lên hoặc thạc sĩ, tiến sĩ mới đi làm luật sư thì sẽ bảo đảm chất lượng của người làm công tác tư vấn.

Cùng đồng tình với quan điểm của Phó Thủ tướng, Đại biểu Bùi Mạnh Hùng (Đoàn Bình Phước) cho rằng, thực tế chất lượng luật sư không đồng đều, còn thiếu về số lượng, cần nâng cao hơn về chất lượng. Trong khi đó, lực lượng giảng viên ở các trường đại học luật là những người giỏi, có trình độ cao, nếu không cho phép lực lượng này hành nghề luật sư sẽ là một sự lãng phí về chất xám, về khoa học pháp lý trong hoạt động tố tụng.

Theo ông Bùi Mạnh Hùng, khi đội ngũ luật sư giỏi như hầu hết các giảng viên luật tham gia tranh tụng sẽ góp phần nâng cao được chất lượng công tác xét xét. Đại biểu này cho rằng, nếu có áp lực thì áp lực đó cũng tạo ra động lực cho sự phát triển mạnh hơn, không có gì đáng lo ngại.

Tuy nhiên, ông Hùng cũng cho rằng, khi cho phép giảng viên được hành nghề luật sư cũng cần phải có những quy định bổ sung là giảng viên làm nghề luật sư chỉ được hành nghề dưới hình thức là làm việc hợp đồng với cơ quan, tổ chức hành nghề luật sư và không thành lập cũng như không tham gia thành lập các tổ chức hành nghề luật sư.

Có nên để viên chức tại cơ quan, doanh nghiệp nhà nước trở thành luật sư công?

Bộ Tư pháp đã kiến nghị đưa viên chức làm việc tại các cơ sở đào tạo luật chuyên ngành được cấp chứng chỉ luật sư công, tuy nhiên, theo một nghiên cứu của Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), trong tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính Việt Nam hiện nay đã hình thành các cơ quan, đơn vị, đội ngũ pháp chế thực hiện các chức năng liên quan đến công tác pháp luật, trong đó có các nhiệm vụ có thể được coi là các nhiệm vụ giống như một luật sư công.

Cụ thể, đội ngũ pháp chế đang hoạt động trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước này thực hiện một số các nhiệm vụ cơ bản sau: Nghiên cứu, tham mưu về các vấn đề pháp lý, đề xuất các giải pháp, chính sách pháp luật; Xây dựng, thẩm định văn bản pháp luật; Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; Phổ biến, giáo dục pháp luật; Giải quyết khiếu nại, tố cáo...

Không thể phủ nhận, trong việc tham mưu, hỗ trợ pháp lý, đề xuất phương án giải pháp cho các dự án pháp lý chuyên ngành, khó có đội ngũ chuyên gia pháp lý chuyên sâu hơn các viên chức pháp chế Bộ, ngành. Từ thực tế đó, có nhiều ý kiến cho rằng, khi hình thành chế định luật sư công có thể tận dụng lực lượng viên chức đang thực hiện công việc pháp chế. Bởi đây là lực lượng chuyên viên pháp lý có kinh nghiệm, chuyên môn tốt, hiểu biết sâu rộng, về các lĩnh vực chuyên môn mà họ được giao phụ trách theo từng ban ngành.

Tuy nhiên, vấn đề viên chức có thể trở thành luật sư công hay không đã được đưa ra bàn bạc rất nhiều trước đây và chưa có hồi kết. Ví như, trong quá trình soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012, vấn đề viên chức có được hành nghề luật sư hay không lại được đặt ra.

Khi soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Luật sư, đã có 3 quan điểm xoay quanh vấn đề viên chức có thể trở thành luật sư hay không. Theo đó, quan điểm thứ nhất không đồng tình viên chức hành nghề luật sư vì có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động luật sư và tạo ra một bộ phận luật sư không chuyên tâm với nghề, không phù hợp với quan điểm “chuyên nghiệp hóa” nghề luật sư.

Quan điểm thứ hai lại cho rằng cần cho phép tất cả viên chức hành nghề luật sư mới đạt mục tiêu đến năm 2020 có 16.000 - 20.000 luật sư theo chiến lược cải cách tư pháp. Tuy nhiên, thực tế đến thời điểm hiện tại, đội ngũ luật sư của Việt Nam đã lên tới khoảng 20.000 luật sư, dù cho chưa có quy định cho phép viên chức được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư.

Quan điểm thứ ba thì đưa ra lập luận rằng, Luật Viên chức không có quy định hạn chế viên chức thành lập, tham gia thành lập doanh nghiệp và thực hiện kinh doanh nên có thể cho phép họ được hành nghề luật sư. Tuy nhiên, với những viên chức đang giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật thì không nên vì có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động luật sư, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan nhà nước khác. Tổ biên tập dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Luật sư đã đồng ý với quan điểm ba này.
 
Luật sư Hoàng Văn Hướng - Trưởng Văn phòng Luật sư Hoàng Hưng không đồng tình với quan điểm công chức, viên chức trở thành luật sư công. 

Chia sẻ về vấn đề này, theo Luật sư Hoàng Văn Hướng - Trưởng Văn phòng Luật sư Hoàng Hưng (Đoàn Luật sư TP Hà Nội), vấn đề có nên cấp chứng chỉ hành nghề luật sư cho viên chức hay không đã được Quốc hội và các cơ quan bàn bạc quá nhiều lần, do đó “không nên vừa đá bóng vừa thổi còi”.

"Theo quan điểm của tôi, cán bộ công chức viên chức cần phải làm tròn tâm, tròn việc với chức trách công vụ của mình. Các nhà khoa học, các giảng viên luật có thể được thực hiện một số các dịch vụ pháp lý phù hợp với trình độ khả năng và lĩnh vực của mình nhưng cần thông qua các tổ chức hành nghề luật sư, tức là cung cấp giải pháp, quan điểm khoa học về lý luận và học thuật của vụ việc chứ không lên trực tiếp cung cấp hay tham gia tố tụng.

Thực tế cho thấy, đã có nhiều các nhà khoa học, các cán bộ công chức đã không thực hiện được toàn diện, trọn vẹn một dịch vụ pháp lý, thậm chí không tuân thủ các quy định chung về thực hiện dịch vụ pháp lý dẫn đến những hệ quả làm mất uy tín của chính cá nhân những người này và làm khó cho việc quản lý mang tính đặc thù của Nhà nước và tự quản", Luật sư Hoàng Văn Hướng nêu quan điểm.

Một điều đặc biệt quan trọng nữa để nói về vấn đề này là hệ thống pháp luật đã quy định để hành nghề tư vấn pháp luật và cung cấp dịch vụ pháp lý phải có tiêu chuẩn và điều kiện. Trong số các tiêu chuẩn đối với luật sư có tiêu chuẩn bắt buộc phải qua đào tạo phương pháp và kỹ năng thực hiện dịch vụ pháp lý, đào tạo để các luật sư trẻ nhận diện ra sứ mệnh của mình, thực hiện chức năng xã hội cho cộng đồng một cách công minh.

Quy tắc 2 của Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam quy định về sự độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan của luật sư như sau: “Luật sư phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích vật chất, tinh thần hoặc bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức ...". Theo đó, luật sư phải hành động độc lập, không bị tác động bởi bất kỳ yếu tố bên ngoài nào, trung thực trong việc trình bày sự thật và luôn tôn trọng sự thật khách quan, không bóp méo, che giấu hay làm sai lệch sự thật để vụ lợi cá nhân hoặc bất kỳ lợi ích nào khác.

Do đó, nếu viên chức trở thành luật sư công liệu có thể đảm bảo được nguyên tắc "độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan" trong nghề luật sư?

Bên cạnh đó, nhiều ý kiến chuyên gia pháp lý lại cho rằng, định hướng nghiên cứu hình thành cơ chế có điều kiện cho phép viên chức được hành nghề luật sư theo Nghị quyết số 66/NQ-TW là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu trong tình hình mới. Vấn đề là đặt ra các điều kiện nghiêm ngặt đối với viên chức đủ điều kiện cấp chứng chỉ luật sư công và có cơ chế kiểm soát tốt.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Luật sư Dương Thị Thanh Bình lại có quan điểm trái ngược: "Theo quan điểm của tôi, trong bối cảnh hội nhập, cũng có thể xem xét cho phép đội ngũ viên chức pháp chế Bộ, ngành tại các cơ quan nhà nước hoạt động với vai trò luật sư công. Bởi lý do, đội ngũ viên chức pháp chế Bộ, ngành tại các cơ quan nhà nước là đội ngũ được tiếp cận gần nhất, nhanh nhất trong việc đưa các quy định của Nhà nước vận dụng vào hoạt động, vận hành các Bộ, ngành.

Đây cũng là bộ phận gần như “nhanh nhạy” nhất trong việc vận dụng quy định của pháp luật, đảm bảo các Bộ, ban, ngành hoạt động đúng, đủ quy định của Nhà nước và đáp ứng sự thay đổi liên tục của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế".

Nhưng để chủ trương viên chức có thể trở thành luật sư công phát huy hiệu quả, đồng thời không ảnh hưởng đến chất lượng hành nghề luật sư và đạo đức công vụ, Luật sư Dương Thị Thanh Bình cho rằng, cần có các chế định chặt chẽ về điều kiện viên chức được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư công. Ví dụ điều kiện về chuyên môn, điều kiện về năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn pháp luật, có tiêu chuẩn đánh giá đạo đức hành nghề và nhất là phải có chế tài xử lý kỷ luật nếu vi phạm về chuyên môn và đạo đức.

"Ngoài ra, tôi cho rằng Bộ Tư pháp, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng cần có sự phối hợp trong nghiên cứu và xây dựng các chế định, thống nhất tiêu chuẩn để cấp chứng chỉ hành nghề luật sư công, chế tài xử lý vi phạm về chuyên môn, đạo đức hành nghề, để tránh sự chồng chéo hoặc không thống nhất", Luật sư Dương Thị Thanh Bình chia sẻ.
 
Vũ Lành - Văn Minh