Phát triển luật sư công: Sứ mệnh và Tầm nhìn - Bài 2

17/06/2025
Phát triển luật sư công: Sứ mệnh và Tầm nhìn - Bài 2
​Trong gần 4 thập kỷ đổi mới và hội nhập quốc tế, từ một đất nước bị cấm vận, giờ đây Việt Nam đã trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn bị coi là yếu thế trong các vụ việc tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Do đó, trong kỷ nguyên vươn mình, hơn bao giờ hết, Việt Nam cần có chế định luật sư công để tư vấn giải quyết tranh chấp quốc tế và tham gia tranh tụng tại cơ quan tài phán quốc tế để bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
LTS: Năm 2006, khái niệm luật sư công lần đầu tiên được nhắc đến khi Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An khi đó đã đề nghị tiếp tục nghiên cứu thêm, bởi Luật Trợ giúp pháp lý được dự thảo và ban hành chỉ trong 06 tháng nên chế định luật sư công trong dự thảo Luật chưa có thời gian để nghiên cứu sâu, kịp ban hành ngay trong thời điểm năm 2006.

Mới đây nhất, ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã yêu cầu: “Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công và cơ chế có điều kiện cho phép viên chức được hành nghề luật sư”.
 
Bài 2: Luật sư công bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước trên trường quốc tế

Những tranh chấp quốc tế là tất yếu

Ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII, Kỳ họp thứ 2 thông qua Luật Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhằm thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, không phân biệt hệ thống chính trị của quốc gia đầu tư. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế của Việt Nam. Luật này đã giúp Việt Nam thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và cải thiện đời sống của người dân.

Năm 1998, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu một chương mới khi dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đầu tiên được cấp phép tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Trải qua gần 4 thập kỷ, Việt Nam giờ đây đang trở thành thị trường đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Tính đến hết năm 2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt gần 38,23 tỷ USD. Riêng trong năm 2024, đã có 114 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trên 56 tỉnh thành của Việt Nam.

Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức ký Nghị định thư gia nhập WTO tại Geneva (Thụy Sỹ) sau 11 năm đàm phán. Sự kiện này đánh dấu cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đến ngày 11/1/2007, các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên WTO chính thức có hiệu lực.

Quyết định gia nhập WTO không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới trong quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam mà còn mang lại những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong nước. Việt Nam đã có nền tảng để cải cách sâu rộng hơn về chính sách kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Lẽ dĩ nhiên, đi đôi với những cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại thì việc Việt Nam cũng phải đối mặt với các tranh chấp đầu tư quốc tế là không thể tránh khỏi.

Theo Tờ trình của Bộ Tư pháp về xây dựng chế định luật sư công, tranh chấp đầu tư quốc tế đang ngày càng trở nên phổ biến và phức tạp đối với các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo thống kê từ các tổ chức quốc tế, số lượng vụ kiện tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ các quốc gia ngày càng tăng.

Tại Việt Nam, đã có nhiều vụ nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra trọng tài quốc tế liên quan đến các dự án đầu tư dưới hình thức PPP, BOT, BCC hay các hiệp định bảo hộ đầu tư do Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định bảo hộ đầu tư với các quốc gia khác, trong đó có điều khoản từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia trong các vụ kiện liên quan đến đầu tư; sự đa dạng và phức tạp của các dự án đầu tư nước ngoài; việc thực thi và áp dụng pháp luật của một số cơ quan nhà nước còn thiếu đồng bộ và nhất quán, thiếu hiểu biết về các cam kết quốc tế.

Bị động và “thua đau” trước các tranh chấp có yếu tố nước ngoài

Ngày 18/11/2010, ông Michael McKenzie, công dân Hoa Kỳ, đã khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra Trọng tài quốc tế về dự án xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng South Fork tại tỉnh Bình Thuận với lý do Chính phủ Việt Nam, mà trực tiếp là UBND tỉnh Bình Thuận, đã vi phạm quy định của Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ được ký ngày 13/7/2000.

Nguyên đơn cho rằng, việc cấp phép này của chính quyền địa phương khiến cho Công ty South Fork bị cản trở không thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình theo Giấy phép đầu tư, gây tác động bất lợi đến dự án đầu tư của nguyên đơn.

Theo Bộ Tư pháp, đây là vụ kiện đầu tư quốc tế đầu tiên mà Việt Nam tham gia. Do đó, khi bắt đầu vụ kiện, Việt Nam đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi và giải thích với ông McKenzie về các quyền và nghĩa vụ của ông và Công ty South Fork theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhưng ông McKenzie không chấp nhận. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã phải giao Bộ Tư pháp làm đại diện pháp lý cho Chính phủ, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Văn phòng Chính phủ và UBND tỉnh Bình Thuận tham gia giải quyết vụ kiện tại Trọng tài quốc tế.

Đứng trước những thủ tục tố tụng theo pháp luật và thông lệ quốc tế, Việt Nam không tránh khỏi bỡ ngỡ. Khi đó, các luật sư của Việt Nam chưa thể đáp ứng được yêu cầu khi tham gia các vụ án có yếu tố nước ngoài nên Bộ Tư pháp đã phải thuê luật sư nước ngoài. Cụ thể, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Công ty Luật quốc tế Hogal Lovells chủ động, tích cực nghiên cứu, thu thập chứng cứ, xây dựng phương án tranh tụng để phản bác lại các cáo buộc không có cơ sở của ông Mc Kenzie, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.

Vào năm 2013, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cũng đã thuê luật sư nước ngoài để làm việc với phía Mỹ sau khi Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (USITC) khẳng định có dấu hiệu cho thấy tôm nhập khẩu, trong đó có tôm Việt Nam, gây thiệt hại cho ngành sản xuất tôm nội địa của Mỹ.

Để tăng cường năng lực, hiệu quả trong công tác giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, ngày 14/01/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Quy chế quy định cụ thể về cơ chế và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có vai trò quan trọng của Bộ Tư pháp khi tham gia giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế tại cơ quan tài phán quốc tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Chính phủ, cơ quan nhà nước Việt Nam.

Dĩ nhiên, khi đã bị động, thiếu luật sư giỏi chuyên môn trong các vụ việc tranh chấp, tham gia tố tụng vào các vụ án có yếu tố nước ngoài, Việt Nam thường bị thua nhiều hơn thắng trong các tranh chấp quốc tế.

Điển hình, năm 2014, một vụ việc từng gây xôn xao dư luận là vụ Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) thua kiện và phải bồi thường 65 tỷ đồng cho nhà thầu Hàn Quốc là Công ty SKonstruction (SKE&C) - nhà thầu thi công gói thầu bến cảng thuộc Dự án đầu tư xây dựng Cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong. Chính Hội đồng Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) đã ra phán quyết buộc Vinalines phải trả hơn 65 tỷ đồng cho nhà thầu Hàn Quốc.

Khi nhận được phán quyết này, Vinalines đã không đồng ý và gửi đơn lên TAND TP Hà Nội kiến nghị hủy phán quyết của VIAC. Tuy nhiên, những lý lẽ của Vinalines đưa ra đã bị TAND TP Hà Nội bác bỏ, vì Vinalines không đưa ra được chứng cứ để chứng minh. Do đó, TAND TP Hà Nội quyết định giữ nguyên phán quyết của VIAC, buộc Vinalines phải bồi thường cho nhà thầu Hàn Quốc 65 tỷ đồng.
 
Vinalines thua kiện và phải trả hơn 65 tỷ đồng cho nhà thầu Hàn Quốc. (Ảnh minh họa)

Từ thực tế có thể thấy, nhu cầu cần có đội ngũ luật sư công có chuyên môn, kinh nghiệm trong các tranh chấp có yếu tố nước ngoài là cấp thiết hơn bao giờ hết. Không chỉ riêng trong lĩnh vực đầu tư, ngay trong các lĩnh vực khác như xuất nhập khẩu, ngoại giao..., Việt Nam cũng không thể tránh khỏi các tranh chấp.

Theo Bộ Tư pháp, các vụ kiện tranh chấp đầu tư quốc tế luôn tiêu tốn nguồn lực rất lớn cả về tài chính, nhân lực và thời gian, đồng thời luôn gây ra áp lực lớn về mặt uy tín, hình ảnh của môi trường đầu tư Việt Nam trên trường quốc tế. Theo báo cáo của 04 Bộ, ngành Trung ương gồm Tư pháp, Công Thương, Xây dựng và Tài chính, trong giai đoạn 2020-2025 đã ghi nhận 53 vụ tranh chấp quốc tế liên quan đến các hoạt động đầu tư và thương mại của Việt Nam.

“Việc thành lập đội ngũ luật sư công chuyên sâu là cần thiết để đại diện, phối hợp với luật sư tư nhân, bảo vệ quyền lợi quốc gia và nâng cao năng lực pháp lý trong hội nhập kinh tế toàn cầu”, Bộ Tư pháp khẳng định trong Tờ trình Đề án nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Những đòi hỏi cao với luật sư công trong các vụ việc có yếu tố nước ngoài

Theo Luật sư, TS Đào Ngọc Chuyền, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội, trong kỷ nguyên vươn mình, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng thì sẽ đón nhận những thứ tốt, tích cực, giàu năng lượng cho khả năng phát triển kinh tế đất nước. Nhưng, chúng ta không thể không tiếp nhận điều tiêu cực là sẽ xảy ra các tranh chấp quốc tế. Khi những tranh chấp đó xảy ra, Việt Nam cần phải có lực lượng chuyên biệt tư vấn giải quyết tranh chấp quốc tế và tham gia tranh tụng tại cơ quan tài phán quốc tế để bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Đó là lý do cần xây dựng chế định luật sư công.

Tuy nhiên, lực lượng luật sư công này cần phải được tham gia vào các quan hệ quốc tế ngay từ các khâu kiến tạo, xây dựng, đàm phán... trong các hoạt động đầu tư đầu tư, thương mại... giữa Việt Nam và các cá nhân, tổ chức nước ngoài.

“Các luật sư công này đòi hỏi phải có tính chuyên môn cao để tham gia vào các mối quan hệ mang tầm vóc quốc tế, giữa cá nhân, doanh nghiệp với quốc gia, giữa quốc gia với quốc gia. Luật sư công khi tham gia trong lĩnh vực này cần phải được tham gia vào có cả quá trình thiết lập, xây dựng, thực hiện các cam kết, hợp đồng quốc tế... Họ phải theo dõi vụ việc một cách xuyên suốt chứ không phải đến khi có tranh chấp mới cần đến luật sư công”, Luật sư, TS Đào Ngọc Chuyền khẳng định.
 
Luật sư, TS Đào Ngọc Chuyền - Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội.

Các luật sư khi được lựa chọn tham gia giải quyết các tranh chấp nước ngoài đa số đều có chuyên môn giỏi nhưng luật sư công ở lĩnh vực này đòi hỏi phải có tính liên tục, tích lũy thông tin, kinh nghiệm khi tham gia vào các quan hệ có yếu tố nước ngoài ngay từ các khâu đầu tiên. Khi đó, luật sư công sẽ có những hiểu biết nhất định về môi trường đầu tư trong nước, quốc tế; hiểu biết về hệ thống pháp lý và nắm bắt được những bất cập diễn ra trong các quan hệ quốc tế tương tự.

Do đó, khi đội ngũ luật sư công này đứng ra giải quyết các tranh chấp sẽ có nhiều thông tin kinh nghiệm, tăng khả năng chiến thắng của Việt Nam trong các vụ kiện có yếu tố nước ngoài.

Hoạt động của luật sư theo Luật Luật sư hiện tại và chế định luật sư công đang xây dựng hiện tại thì không chỉ căn cứ vào năng lực nội tại của mỗi luật sư, mà những người này phải có quan hệ, hợp tác với đồng nghiệp khác. Các luật sư công cần phải kết nối với luật sư ở nước ngoài đó để có thông tin sâu hơn, chắc hơn về pháp lý mà đất nước, châu lục, tổ chức mà Việt Nam sẽ thiết lập quan hệ đầu tư thương mại, ngoại giao...

“Nếu một luật sư giỏi mà không nắm chắc được hệ thống pháp luật của đất nước mà Việt Nam sẽ thiết lập mối quan hệ hợp tác, thì sẽ mù mờ giống như người nhảy dù xuống địa bàn mới mà không tìm hiểu trước. Luật sư công phải dự báo và đoán định để chủ động xử lý những tình huống pháp lý khi phát sinh, chứ không phải bị động bất ngờ cách khi có vấn đề xảy ra mới bắt đầu vội vàng đi tìm hiểu”, Luật sư, TS Đào Ngọc Chuyền nêu quan điểm.
 
Vũ Lành - Văn Minh
(Còn tiếp)