Để thúc đẩy chuyển đổi số trong công nghiệp thông qua việc thúc đẩy tạo lập và sử dụng dữ liệu công nghiệp cũng như áp dụng công nghệ thông tin thông minh vào công nghiệp, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân và phát triển kinh tế quốc gia ở Hàn Quốc, ngày 4/1/2022, Quốc hội Hàn Quốc đã thông qua Luật Thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp (산업 디지털 전환 촉진법), còn gọi tắt là Luật Chuyển đổi số (có hiệu lực thi hành từ ngày 4/7/2025). Luật này đã được sửa đổi, bổ sung một phần vào ngày 27/5/2025.
Luật Thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp của Hàn Quốc gồm 30 điều, được chia thành 6 chương: Chương 1 “Những quy định chung” từ Điều 1 đến Điều 4; Chương 2 “Lập và triển khai chính sách chuyển đổi số công nghiệp” từ Điều 5 đến Điều 8; Chương 3 “Xây dựng hệ sinh thái sử dụng dữ liệu công nghiệp” từ Điều 9 đến Điều 14; Chương 4 “Hỗ trợ dự án tiên phong về chuyển đổi số công nghiệp” từ Điều 15 đến Điều 18; Chương 5 “Xây dựng và thúc đẩy nền tảng chuyển đổi số công nghiệp” từ Điều 19 đến Điều 27; Chương 6 “Quy định bổ sung” từ Điều 28 đến Điều 30. Nội dung cơ bản của các quy định này cụ thể như sau:
1. Những thuật ngữ cơ bản được sử dụng trong quy định của Luật
- “Dữ liệu công nghiệp”: là tất cả các loại dữ liệu hoặc thông tin có thể được xử lý bằng phương thức quang học hoặc điện tử, được tạo ra hoặc sử dụng trong quá trình hoạt động công nghiệp, bao gồm các hoạt động phát triển, sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ của: (1) ngành công nghiệp theo Điều 2 của Luật Phát triển công nghiệp; (2) ngành khai khoáng theo khoản 2 Điều 3 của Luật Khai khoáng; (3) ngành năng lượng theo khoản 1 Điều 2 của Luật Năng lượng; (4) ngành năng lượng mới và tái tạo theo khoản 1 và 2 Điều 2 của Luật Thúc đẩy phát triển, sử dụng và phổ biến năng lượng mới và năng lượng tái tạo (sau đây gọi chung là “hoạt động công nghiệp”).
- “Tạo lập dữ liệu công nghiệp”: là việc dữ liệu công nghiệp mới phát sinh trong quá trình hoạt động công nghiệp thông qua sự đầu tư và nỗ lực đáng kể về nhân lực hoặc vật lực, vốn chưa từng tồn tại trước đó (bao gồm cả trường hợp phát sinh dữ liệu công nghiệp mới có tính độc lập thông qua việc sử dụng dữ liệu công nghiệp).
- “Sử dụng dữ liệu công nghiệp”: là việc thu thập, liên kết, lưu trữ, sở hữu, xử lý, phân tích, khai thác, cung cấp, công bố hoặc thực hiện các hành vi tương tự đối với dữ liệu công nghiệp.
- “Chuyển đổi số công nghiệp”: là một loạt các hoạt động áp dụng dữ liệu công nghiệp và công nghệ thông tin thông minh theo khoản 4 Điều 2 của Luật Cơ bản về thông tin thông minh vào công nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả quy trình hoạt động công nghiệp và tạo ra giá trị gia tăng mới.
- “Dự án tiên phong về chuyển đổi số công nghiệp” (sau đây gọi là “dự án tiên phong”): là dự án do một hoặc nhiều doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học... (sau đây gọi là “doanh nghiệp, v.v.”) thực hiện với mục tiêu chuyển đổi số công nghiệp, có tác động lan tỏa lớn đến chuyển đổi số công nghiệp và được lựa chọn theo Điều 15.
- “Nền tảng dữ liệu công nghiệp”: là dịch vụ tích hợp điện tử và hạ tầng do một hoặc nhiều doanh nghiệp, v.v. xây dựng nhằm hỗ trợ hiệu quả việc sử dụng dữ liệu công nghiệp.
- “Cơ quan nhà nước, v.v.”: là cơ quan hành chính trung ương (bao gồm cơ quan thuộc Tổng thống và cơ quan thuộc Thủ tướng Chính phủ) và cơ quan trực thuộc, chính quyền địa phương cùng với các cơ quan sau đây: (a) Cơ quan công theo Điều 4 của Luật về vận hành cơ quan công; (b) Doanh nghiệp công và tổ chức công địa phương theo Luật Doanh nghiệp công địa phương; (c) Pháp nhân đặc biệt được thành lập theo luật chuyên ngành; (d) Các pháp nhân, tổ chức và cơ quan khác do Nghị định của Tổng thống quy định.
Luật cũng quy định rõ (tại Điều 3) trách nhiệm của Nhà nước trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong các ngành công nghiệp, theo đó: Nhà nước phải xây dựng và triển khai các chính sách tổng thể nhằm thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp và tạo dựng nền tảng cho quá trình này. Chính quyền địa phương phải xây dựng và triển khai các chính sách khu vực cho chuyển đổi số công nghiệp, có tính đến chính sách chung của Nhà nước và đặc thù của địa phương.
2. Việc lập và triển khai chính sách chuyển đổi số công nghiệp
2.1. Lập kế hoạch tổng thể về chuyển đổi số công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng phải lập và triển khai Kế hoạch tổng thể về chuyển đổi số công nghiệp (sau đây gọi là “kế hoạch tổng thể”) cứ 3 năm một lần nhằm đạt được hiệu quả và hệ thống hóa mục tiêu của Luật này. Kế hoạch tổng thể phải bao gồm những nội dung sau: (1) Định hướng và mục tiêu của chính sách chuyển đổi số công nghiệp; (2) Việc xây dựng và hoàn thiện chế độ thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp; (3) Xây dựng nền tảng và tiêu chuẩn hóa việc tạo lập, sử dụng, bảo vệ, giao dịch, an ninh, an toàn dữ liệu công nghiệp; (4) Chia sẻ, sử dụng chung và thúc đẩy giao dịch dữ liệu công nghiệp để khuyến khích chuyển đổi số công nghiệp; (5) Hỗ trợ nghiên cứu phát triển và thương mại hóa nhằm phục vụ chuyển đổi số công nghiệp; (6) Đào tạo nhân lực chuyên môn và hỗ trợ việc làm để thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp; (7) Thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp tại các địa phương; (8) Hợp tác quốc tế và thúc đẩy doanh nghiệp trong nước tham gia ra nước ngoài liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp; (9) Đầu tư và huy động nguồn lực cần thiết cho chuyển đổi số công nghiệp; (10) Các vấn đề khác cần thiết cho chuyển đổi số công nghiệp theo quy định của Nghị định của Tổng thống.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng phải lập kế hoạch tổng thể sau khi tham khảo ý kiến của Ủy ban Chuyển đổi số Công nghiệp theo Điều 7. Trường hợp sửa đổi các nội dung quan trọng của kế hoạch tổng thể theo quy định tại Nghị định của Tổng thống thì cũng phải thực hiện theo thủ tục này.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể yêu cầu người đứng đầu các cơ quan nhà nước, v.v. cung cấp tài liệu cần thiết để xây dựng kế hoạch tổng thể. Người được yêu cầu phải tuân thủ trừ khi có lý do đặc biệt.
Các vấn đề cần thiết cho việc lập và triển khai kế hoạch tổng thể do Nghị định của Tổng thống quy định.
2.2. Điều tra thực trạng về chuyển đổi số
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể tiến hành điều tra hoặc lập thống kê, báo cáo thực trạng liên quan để xây dựng và triển khai kế hoạch tổng thể; có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước liên quan cung cấp tài liệu cần thiết cho việc điều tra thực trạng. Người được yêu cầu phải hợp tác, trừ khi có lý do đặc biệt.
2.3. Ủy ban Chuyển đổi số công nghiệp
Điều 7 của Luật Thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp của Hàn Quốc quy định: Để thẩm định chính sách liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp và kiểm tra việc thực hiện, thành lập Ủy ban Chuyển đổi số công nghiệp (sau đây gọi là “Ủy ban Chuyển đổi”) trực thuộc Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng. Ủy ban Chuyển đổi gồm từ 20 đến 30 thành viên, trong đó có 1 Chủ tịch. Thành viên bao gồm: (1) Ủy viên là quan chức chính phủ ở cấp Thứ trưởng thuộc các cơ quan hành chính trung ương có liên quan do Nghị định của Tổng thống quy định; (2) Ủy viên dân sự có kiến thức và kinh nghiệm phong phú về chuyển đổi số công nghiệp do Chủ tịch Ủy ban mời.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng là Chủ tịch Ủy ban; Thư ký là công chức thuộc Bộ do Chủ tịch chỉ định. Chủ tịch đại diện cho Ủy ban Chuyển đổi và điều hành toàn bộ công việc của Ủy ban. Khi Chủ tịch vì lý do bất khả kháng không thể thực hiện nhiệm vụ, thành viên do Chủ tịch chỉ định trước sẽ thay mặt thực hiện nhiệm vụ. Nhiệm kỳ của ủy viên dân sự được bổ nhiệm theo khoản 2 là 2 năm, và chỉ được tái bổ nhiệm một lần. Trường hợp có ủy viên mới được bổ nhiệm thay thế thì nhiệm kỳ sẽ là phần còn lại của người tiền nhiệm. Ủy ban Chuyển đổi có thể thành lập Ủy ban chuyên môn để thẩm tra công việc được giao hoặc để hỗ trợ, thực hiện hiệu quả công việc. Các vấn đề cần thiết về cơ cấu và vận hành của Ủy ban chuyển đổi và Ủy ban chuyên môn do Nghị định của Tổng thống quy định.
Điều 8 của Luật Thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp của Hàn Quốc quy định chức năng của Ủy ban Chuyển đổi số như sau:
Ủy ban Chuyển đổi số thẩm định các vấn đề sau: (1) Việc lập, thực hiện và sửa đổi Kế hoạch tổng thể; (2) Kiểm tra kết quả thực hiện Kế hoạch tổng thể; (3) Chính sách, xây dựng và hoàn thiện chế độ liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp; (4) Xây dựng nền tảng và tiêu chuẩn hóa cho việc tạo lập, sử dụng, bảo vệ, giao dịch, an ninh, an toàn dữ liệu công nghiệp; (5) Hỗ trợ doanh nghiệp, v.v. cho chuyển đổi số công nghiệp; (6) Lựa chọn và hỗ trợ các dự án tiên phong về chuyển đổi số công nghiệp; (7) Các vấn đề do người đứng đầu cơ quan hành chính trung ương có liên quan yêu cầu liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp; (8) Các vấn đề khác do Chủ tịch Ủy ban đưa ra trong cuộc họp liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp.
Để thẩm định các vấn đề kể trên, Ủy ban Chuyển đổi số có thể lấy ý kiến từ công chức, nhân viên của cơ quan nhà nước, hoặc người có kiến thức chuyên môn về chuyển đổi số công nghiệp; đồng thời có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp tài liệu. Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể, dựa trên kết quả thẩm định của Ủy ban Chuyển đổi số, đề nghị người đứng đầu cơ quan nhà nước thực hiện biện pháp cần thiết. Người được đề nghị phải tuân thủ, trừ khi có lý do đặc biệt.
3. Việc xây dựng hệ sinh thái sử dụng dữ liệu công nghiệp
3.1. Nguyên tắc sử dụng và bảo vệ dữ liệu công nghiệp
Theo quy định tại Điều 9 của Luật Chuyển đổi số công nghiệp của Hàn Quốc, việc sử dụng và bảo vệ dữ liệu công nghiệp phải tuân theo 7 nguyên tắc sau: (1) Người tạo lập dữ liệu công nghiệp có quyền sử dụng và hưởng lợi từ dữ liệu đó; (2) Trường hợp dữ liệu công nghiệp được tạo lập chung bởi từ hai người trở lên thì mỗi người đều có quyền sử dụng và hưởng lợi, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên; (3) Trường hợp dữ liệu công nghiệp được cung cấp cho bên thứ ba thì cả người tạo lập dữ liệu và bên thứ ba đều có quyền sử dụng và hưởng lợi, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên; (4) Không ai được xâm phạm quyền tại các khoản 1 đến 3 bằng phương thức trái với thông lệ thương mại công bằng hoặc trật tự cạnh tranh (1); (5) Các bên liên quan tham gia tạo lập hoặc sử dụng dữ liệu công nghiệp phải nỗ lực ký kết hợp đồng để đảm bảo việc sử dụng dữ liệu thuận lợi và phân chia lợi ích hợp lý; không được lạm dụng địa vị để ép buộc hợp đồng bất công hoặc thu lợi bất chính mà không có lý do hợp lý; (6) Người có quyền sử dụng và hưởng lợi từ dữ liệu công nghiệp phải đảm bảo tính toàn vẹn và độ tin cậy của dữ liệu, phòng tránh mất mát, trộm cắp, rò rỉ, giả mạo, sửa đổi hoặc hư hại, đồng thời phải nỗ lực để sản phẩm, dịch vụ được tạo ra từ việc sử dụng dữ liệu không gây nguy hại; (7) Người vi phạm khoản 4 (phần đầu) và khoản 6 do cố ý hoặc lỗi bất cẩn gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường.
3.2. Thúc đẩy sử dụng dữ liệu công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể hỗ trợ cần thiết để bảo đảm môi trường tạo lập, sử dụng dữ liệu công nghiệp thuận lợi và an toàn, đảm bảo lưu thông hợp lý, giao dịch công bằng và khuyến khích các doanh nghiệp, v.v. tạo lập, sử dụng dữ liệu.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể, sau khi tham khảo ý kiến người đứng đầu cơ quan hành chính trung ương liên quan, ban hành hướng dẫn về hợp đồng sử dụng dữ liệu công nghiệp để bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc sử dụng, bảo vệ dữ liệu tại Điều 9 và thúc đẩy việc ký kết hợp đồng theo khoản 5 Điều 9.
3.3. Công ty chuyên môn hỗ trợ chuyển đổi số công nghiệp
Các chủ thể muốn tiến hành những hoạt động sau đây nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, v.v. trong việc sử dụng dữ liệu công nghiệp và công nghệ thông tin thông minh có thể thành lập và vận hành công ty chuyên môn hỗ trợ chuyển đổi số công nghiệp (sau đây gọi là “công ty chuyên môn”): (1) Kinh doanh hoạt động thu thập và cung cấp dữ liệu công nghiệp cho người khác; (2) Kinh doanh hoạt động môi giới giao dịch dữ liệu công nghiệp, bao gồm việc thu thập, phân tích, cung cấp thông tin để môi giới; (3) Thực hiện tư vấn, cung cấp thiết bị, phần mềm… cho đối tượng muốn sử dụng dữ liệu công nghiệp và công nghệ thông tin thông minh; (4) Thay mặt người có quyền sử dụng dữ liệu công nghiệp, hỗ trợ toàn diện để tận dụng các hoạt động tại điểm 2 và điểm 3.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể hỗ trợ cần thiết cho công ty chuyên môn, như phát triển kỹ thuật và dịch vụ liên quan đến các hoạt động kể trên. Công ty chuyên môn muốn được hỗ trợ phải đáp ứng tiêu chuẩn do Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng quy định và đăng ký với Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng. Các vấn đề về thủ tục đăng ký của công ty chuyên môn được quy định bằng quy chế của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng.
3.4. Tiêu chuẩn hóa dữ liệu công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng phải thúc đẩy tiêu chuẩn hóa các vấn đề sau nhằm tăng tính tương thích, hiệu quả sử dụng dữ liệu công nghiệp và khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu các luật khác như Luật Tiêu chuẩn hóa công nghiệp, Luật Cơ bản về Thúc đẩy và Sử dụng Công nghiệp dữ liệu đã có tiêu chuẩn liên quan thì tuân theo quy định đó: (1) Tạo lập, thu thập, bảo quản và truyền tải dữ liệu công nghiệp; (2) Chia sẻ, sử dụng chung, giao dịch dữ liệu công nghiệp; (3) Liên kết dữ liệu công nghiệp; (4) Liên kết với tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến dữ liệu công nghiệp; (5) Các vấn đề khác cần thiết cho việc tạo lập, sử dụng và quản lý hiệu quả dữ liệu công nghiệp. Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể hỗ trợ cần thiết để xây dựng nền tảng chia sẻ chung (như nền tảng dữ liệu công nghiệp) trong quá trình thúc đẩy tiêu chuẩn hóa vừa nêu. Cơ quan nhà nước và các chủ thể khác phải tuân thủ các tiêu chuẩn được ban hành quy định ở trên. Trong trường hợp này, Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể điều tra việc tuân thủ và yêu cầu khắc phục theo kết quả điều tra.
Tổ chức được quy định tại Điều 26 (cơ quan chuyên trách) hoặc Điều 27 (hiệp hội), cùng các bên liên quan đến tiêu chuẩn hóa dữ liệu công nghiệp, có thể đề xuất dự thảo tiêu chuẩn liên quan đến các vấn đề ở trên và yêu cầu Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng phản ánh nội dung đó vào tiêu chuẩn.
3.5. Hỗ trợ quản lý chất lượng dữ liệu công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể xây dựng các chính sách cần thiết để thúc đẩy quản lý chất lượng thích hợp và giao dịch dữ liệu công nghiệp, bao gồm các nội dung sau: (1) Tiêu chuẩn chẩn đoán chất lượng dữ liệu công nghiệp; (2) Phương pháp và hệ thống đánh giá chất lượng dữ liệu công nghiệp; (3) Chứng nhận và cải thiện chất lượng dữ liệu công nghiệp; (4) Các vấn đề khác cần thiết để hỗ trợ quản lý chất lượng dữ liệu công nghiệp.
3.6. Nền tảng dữ liệu công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể xây dựng các chính sách liên quan đến nền tảng dữ liệu công nghiệp (sau đây gọi là “nền tảng”) nhằm hỗ trợ việc tạo lập và sử dụng dữ liệu công nghiệp một cách hiệu quả, bao gồm: (1) Điều tra và nghiên cứu hiện trạng nền tảng; (2) Xây dựng và vận hành nền tảng; (3) Phát triển và sử dụng công nghệ, thiết bị, phần mềm liên quan đến nền tảng; (4) Xây dựng cơ sở thúc đẩy hoạt động của nền tảng và cải thiện chế độ pháp lý; (5) Đảm bảo khả năng tương thích và hỗ trợ kết nối giữa các nền tảng; (6) Các vấn đề khác cần thiết cho việc xây dựng và vận hành nền tảng.
4. Hỗ trợ dự án tiên phong về chuyển đổi số công nghiệp
4.1. Lựa chọn dự án tiên phong về chuyển đổi số công nghiệp
Nhà nước và chính quyền địa phương có thể phát hiện và hỗ trợ các dự án tiên phong. Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể khuyến nghị sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và các chủ thể khác để phát hiện các dự án tiên phong được triển khai thông qua hợp tác như phát triển công nghệ chung và thương mại hóa. Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể nhận đơn đăng ký kế hoạch dự án tiên phong từ các doanh nghiệp và các chủ thể khác, trong đó bao gồm những nội dung sau, và sau khi có sự thẩm định của Ủy ban chuyển đổi số, có thể lựa chọn và hỗ trợ: (1) Mục tiêu chuyển đổi số công nghiệp; (2) Nội dung dự án tiên phong; (3) Hiệu quả kỳ vọng của chuyển đổi số công nghiệp; (4) Kế hoạch nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm, đánh giá, xác minh, sản xuất hoặc đầu tư; (5) Nguồn vốn cần thiết và phương thức huy động; (5) Các vấn đề liên quan đến hỗ trợ, cải thiện quy định; (6) Các vấn đề về phát hiện, phương thức và thủ tục lựa chọn dự án tiên phong theo khoản 1 và 3 do Nghị định của Tổng thống quy định.
4.2. Hỗ trợ đối với dự án tiên phong
Nhà nước và chính quyền địa phương, để hỗ trợ dự án tiên phong được lựa chọn, có thể cung cấp hỗ trợ hành chính, kỹ thuật, tài chính cho các doanh nghiệp, các chủ thể khác liên quan đến những nội dung sau: (1) Phát triển công nghệ và thương mại hóa phục vụ chuyển đổi số công nghiệp; (2) Phát triển và tung ra sản phẩm, dịch vụ mới liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp; (3) Sử dụng dữ liệu công nghiệp để nâng cao hiệu quả hoặc giải quyết vấn đề trong các hoạt động phát triển, sản xuất, phân phối, tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ; (4) Xây dựng nền tảng dùng chung như nền tảng dữ liệu công nghiệp; (5) Cải thiện quy định theo Điều 17; (6) Các hoạt động khác do Nghị định của Tổng thống quy định là cần thiết cho việc hỗ trợ dự án tiên phong
4.3. Hỗ trợ cải thiện quy định (Điều 17)
Doanh nghiệp, các chủ thể khác tham gia dự án tiên phong có thể nộp đơn yêu cầu Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng cải thiện các quy định cần thiết để đạt được mục tiêu của dự án.
Khi có đơn yêu cầu, Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng phải thông báo cho người đứng đầu cơ quan hành chính có liên quan; người đứng đầu cơ quan này phải xem xét nội dung yêu cầu và trả lời bằng văn bản cho Bộ trưởng trong vòng 15 ngày. Trường hợp nội dung không cần sửa đổi pháp luật thì phải xử lý nhanh chóng.
Nếu người đứng đầu cơ quan có liên quan yêu cầu doanh nghiệp nộp bổ sung tài liệu để xem xét cải thiện quy định, thì thời gian bổ sung tài liệu không tính vào thời hạn trả lời kể trên. Tuy nhiên, kết quả xem xét phải được trả lời trong vòng 45 ngày; nếu không thể trong thời hạn này thì có thể yêu cầu gia hạn một lần, tối đa 30 ngày.
Ủy ban chuyển đổi số phải thẩm định nội dung yêu cầu, kết quả xem xét của cơ quan có liên quan, kết quả xử lý yêu cầu và tính cần thiết của cải thiện quy định. Trong trường hợp này, có thể yêu cầu người đứng đầu cơ quan có liên quan tham dự Ủy ban.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể, dựa trên kết quả thẩm định của Ủy ban chuyển đổi số kể trên, thông báo cho cơ quan có liên quan và yêu cầu cải thiện quy định. Người đứng đầu cơ quan có liên quan phải tôn trọng kết quả thẩm định của Ủy ban và cải thiện quy định, trừ khi có lý do đặc biệt. Nếu kết quả thẩm định cho thấy cần thiết phải sửa đổi luật, người đứng đầu cơ quan có liên quan phải xem xét và khẩn trương tiến hành sửa đổi luật có liên quan.
Doanh nghiệp, các chủ thể khác tham gia dự án tiên phong, khi pháp luật và quy định liên quan chưa rõ ràng, có thể nộp đơn xin xác nhận nhanh về quy định theo thủ tục và điều kiện quy định tại Điều 10-2 của Luật Thúc đẩy hội tụ công nghiệp, Điều 36 của Luật Đặc biệt về thúc đẩy và kích hoạt hội tụ và công nghệ thông tin, hoặc Điều 85 của Luật Đặc biệt về khu đặc quyền tự do quy định và phát triển khu vực đặc thù.
Doanh nghiệp, các chủ thể khác tham gia dự án tiên phong, nếu cần miễn trừ quy định hoặc giấy phép tạm thời để thực hiện thử nghiệm, có thể nộp đơn xin theo thủ tục và điều kiện tại Điều 10-3 hoặc 10-6 của Luật Thúc đẩy hội tụ công nghiệp, Điều 37 hoặc 38-2 của Luật Đặc biệt về thúc đẩy và kích hoạt hội tụ và công nghệ thông tin, hoặc Điều 86 hoặc 90 của Luật Đặc biệt về khu đặc quyền tự do quy định và phát triển khu vực đặc thù.
Tiêu chuẩn, thủ tục và phương pháp thẩm định cải thiện quy định cùng các chi tiết liên quan đến các nội dung kể trên do Nghị định của Tổng thống quy định.
4.4. Quản lý và giám sát cải thiện quy định
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng cùng với người đứng đầu cơ quan hành chính có liên quan sẽ cùng quản lý, giám sát các dự án được áp dụng cải thiện quy định theo Điều 17.
Trường hợp công chức của cơ quan hành chính xử lý tích cực công việc cải thiện quy định theo Điều 17 mà không có hành vi cố ý hoặc lỗi nghiêm trọng, thì không bị truy cứu trách nhiệm kỷ luật hoặc trách nhiệm khác theo Luật Kiểm toán công.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể hủy bỏ hoặc ra lệnh khắc phục việc áp dụng cải thiện quy định nếu đối tượng được áp dụng rơi vào một trong các trường hợp sau. Tuy nhiên, trong trường hợp điểm 1 thì bắt buộc phải hủy bỏ:
1. Được áp dụng bằng thủ đoạn gian dối hoặc phương thức bất chính khác
2. Không còn đáp ứng tiêu chuẩn thẩm định theo khoản 9 Điều 17
3. Rõ ràng không thể đạt được mục tiêu của cải thiện quy định
4. Gây ra tai nạn do cố ý hoặc lỗi, gây nguy hại đến tính mạng, thân thể, tài sản hoặc môi trường
Thủ tục hủy bỏ việc áp dụng cải thiện quy định và các chi tiết liên quan đến khoản 1 đến 3 do Nghị định của Tổng thống quy định.
5. Xây dựng và thúc đẩy nền tảng chuyển đổi số công nghiệp
5.1. Trung tâm hỗ trợ hợp tác chuyển đổi số công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể chỉ định pháp nhân, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng các điều kiện về nhân lực chuyên môn và cơ sở vật chất theo Nghị định của Tổng thống làm Trung tâm hỗ trợ hợp tác chuyển đổi số công nghiệp (sau đây gọi là “Trung tâm hợp tác”) để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ hợp tác chuyển đổi số công nghiệp.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể cấp vốn hoặc trợ cấp chi phí cần thiết cho hoạt động của Trung tâm hợp tác.
Các vấn đề về chỉ định, vận hành Trung tâm hợp tác, loại hình nhiệm vụ hỗ trợ hợp tác chuyển đổi số công nghiệp và các vấn đề cần thiết khác do Nghị định của Tổng thống quy định.
5.2. Thúc đẩy phát triển công nghệ và dịch vụ
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể triển khai các hoạt động sau để thúc đẩy phát triển công nghệ, thiết bị, phần mềm liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp và sản phẩm, dịch vụ được tạo ra thông qua chuyển đổi số công nghiệp (sau đây gọi chung là “công nghệ, v.v.”): (1) Điều tra thực trạng, thống kê liên quan đến công nghệ, v.v; (2) Phát triển và thương mại hóa công nghệ, v.v.; (3) Đánh giá và sử dụng công nghệ, v.v. đã được phát triển; (4) Xây dựng nền tảng cho việc phát triển công nghệ, v.v.; (5) Các hoạt động khác cần thiết để phát triển công nghệ, v.v.
5.3. Đào tạo nhân lực chuyên môn về chuyển đổi số công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể xây dựng các chính sách sau để đào tạo và hỗ trợ việc làm cho nhân lực chuyên môn về chuyển đổi số công nghiệp (sau đây gọi là “nhân lực chuyên môn”): (1) Nắm bắt thực trạng và lập dự báo cung cầu trung, dài hạn về nhân lực chuyên môn; (2) Phát triển và hỗ trợ phổ biến các chương trình đào tạo, huấn luyện nhân lực chuyên môn; (3) Xây dựng tiêu chuẩn nghề nghiệp và hỗ trợ thiết lập hệ thống chứng chỉ liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp; (4) Hỗ trợ ổn định việc làm và phát triển năng lực cho người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số công nghiệp; (5) Các vấn đề khác cần thiết cho việc đào tạo nhân lực chuyên môn.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể chỉ định viện nghiên cứu, trường đại học hoặc cơ quan, tổ chức khác làm cơ quan đào tạo nhân lực chuyên môn để thực hiện chương trình đào tạo theo điểm 2 kể trên, và trong phạm vi ngân sách có thể hỗ trợ chi phí cần thiết.
Ngoài những vấn đề được quy định kể trên, các điều kiện chỉ định cơ quan đào tạo nhân lực chuyên môn và các vấn đề khác liên quan sẽ do Nghị định của Tổng thống quy định.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể hủy bỏ việc chỉ định cơ quan đào tạo nhân lực chuyên môn trong các trường hợp sau. Tuy nhiên, trường hợp tại điểm 1 thì bắt buộc phải hủy bỏ: (1) Được chỉ định làm cơ quan đào tạo nhân lực chuyên môn bằng thủ đoạn gian dối hoặc phương thức bất chính khác; (2) Không còn đáp ứng điều kiện chỉ định quy định ở trên; (3) Không có kết quả đào tạo nào trong hơn 1 năm kể từ ngày được chỉ định mà không có lý do chính đáng.
5.4. Hỗ trợ tài chính và thuế
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể thực hiện các chính sách cần thiết như hỗ trợ tài chính, bảo lãnh tín dụng nhằm cung cấp nguồn vốn thuận lợi cho việc hỗ trợ chuyển đổi số công nghiệp.
Nhà nước và chính quyền địa phương có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ về thuế theo quy định tại Luật Hạn chế ưu đãi thuế, Luật Hạn chế ưu đãi thuế địa phương, và các luật thuế khác để thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp.
Nhà nước và chính quyền địa phương có thể cung cấp các hỗ trợ hành chính cần thiết để thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp.
5.5. Hợp tác quốc tế
Chính phủ phải nỗ lực thúc đẩy hợp tác quốc tế với các tổ chức quốc tế, chính phủ nước ngoài, doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu và tổ chức khác nhằm khuyến khích chuyển đổi số công nghiệp.
Chính phủ phải nỗ lực để dữ liệu công nghiệp của công dân Hàn Quốc (bao gồm cả pháp nhân hoặc tổ chức được thành lập theo pháp luật Hàn Quốc, sau đây gọi chung là “công dân Hàn Quốc”) được bảo vệ thích đáng ở nước ngoài.
Nếu dữ liệu công nghiệp của công dân Hàn Quốc không được bảo vệ thích đáng theo pháp luật của nước sở tại, Chính phủ có thể, theo thẩm quyền hoặc theo yêu cầu của đương sự, thực hiện các biện pháp cần thiết như điều tra hiện trạng, yêu cầu chính phủ nước đó có hành động, hợp tác với tổ chức quốc tế và tổ chức liên quan.
Để thúc đẩy hợp tác quốc tế về chuyển đổi số công nghiệp, Chính phủ có thể thực hiện các hoạt động sau: (1) Hợp tác với tổ chức quốc tế và chính phủ nước ngoài liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp; (2) Hỗ trợ hợp tác quốc tế trong khu vực tư nhân liên quan đến chuyển đổi số công nghiệp; (3) Hỗ trợ giao lưu quốc tế về công nghệ và nhân lực liên quan đến dữ liệu công nghiệp và công nghệ thông tin thông minh; (4) Hỗ trợ tiêu chuẩn hóa quốc tế về dữ liệu công nghiệp; (5) Ngăn chặn việc rò rỉ dữ liệu công nghiệp bất hợp pháp ra nước ngoài.
Các vấn đề khác liên quan đến hợp tác quốc tế do Nghị định của Tổng thống quy định.
Chính phủ có thể thực hiện các biện pháp cần thiết đối với chính phủ của quốc gia hạn chế việc chuyển dữ liệu công nghiệp ra nước ngoài. Tuy nhiên, trường hợp cần thiết để thực hiện điều ước quốc tế hoặc thỏa thuận quốc tế khác thì ngoại lệ.
5.6. Lựa chọn và hỗ trợ doanh nghiệp xuất sắc trong chuyển đổi số công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể xây dựng chính sách hỗ trợ như lựa chọn và khen thưởng doanh nghiệp xuất sắc trong chuyển đổi số công nghiệp và cá nhân, tổ chức có đóng góp cho chuyển đổi số công nghiệp (sau đây gọi chung là “doanh nghiệp xuất sắc về chuyển đổi số công nghiệp, v.v.”) nhằm thúc đẩy chuyển đổi số công nghiệp. Các vấn đề cần thiết về phương thức và thủ tục lựa chọn doanh nghiệp xuất sắc, cũng như chính sách hỗ trợ liên quan, sẽ do Quy chế của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng quy định.
5.7. Đảm bảo an toàn cho sản phẩm sử dụng dữ liệu công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng phải xây dựng các chính sách nhằm đảm bảo an toàn cho sản phẩm, dịch vụ sử dụng dữ liệu công nghiệp để có thể được sử dụng một cách an toàn, không có khiếm khuyết.
5.8. Chỉ định cơ quan chuyên trách (Điều 26)
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể chỉ định Viện Xúc tiến Công nghệ Công nghiệp Hàn Quốc theo Điều 38 của Luật Thúc đẩy đổi mới công nghệ công nghiệp hoặc cơ quan, tổ chức do Bộ trưởng quy định làm cơ quan chuyên trách để thực hiện các nhiệm vụ do Nghị định của Tổng thống quy định, nhằm thúc đẩy hiệu quả chính sách chuyển đổi số công nghiệp.
Bộ trưởng có thể cấp vốn hoặc trợ cấp chi phí cần thiết cho cơ quan chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ kể trên.
Các vấn đề về chỉ định, vận hành cơ quan chuyên trách và các vấn đề cần thiết khác do Nghị định của Tổng thống quy định.
5.9. Thành lập hiệp hội (Điều 27)
Người hoạt động trong lĩnh vực chuyển đổi số công nghiệp có thể, theo quy định tại Nghị định của Tổng thống và được Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng phê chuẩn, thành lập hiệp hội. Hiệp hội có tư cách pháp nhân; trừ các quy định tại luật này, việc thành lập và hoạt động của hiệp hội được áp dụng theo quy định về pháp nhân hội trong Bộ luật Dân sự. Bộ trưởng có thể cấp vốn hoặc trợ cấp chi phí cần thiết cho hiệp hội để thực hiện các nhiệm vụ do Nghị định của Tổng thống quy định. Việc thành lập, vận hành hiệp hội và các vấn đề cần thiết khác do Nghị định của Tổng thống quy định.
6. Một số quy định khác
6.1. Huy động nguồn tài chính
Nhà nước và chính quyền địa phương phải nỗ lực để bảo đảm nguồn tài chính cần thiết nhằm triển khai các chính sách được quy định trong Luật này. Nhà nước và chính quyền địa phương có thể hỗ trợ các dự án liên quan bằng ngân sách nhà nước hoặc ngân sách của chính quyền địa phương để thực hiện các chính sách theo Luật này.
6.2. Ủy quyền và ủy thác quyền hạn
Một phần quyền hạn của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng theo Luật này có thể được ủy quyền cho người đứng đầu cơ quan trực thuộc hoặc cho Thị trưởng đặc biệt, Thị trưởng thành phố trực thuộc trung ương, Thị trưởng đặc biệt tự trị, Tỉnh trưởng, hoặc Tỉnh trưởng đặc biệt tự trị theo quy định tại Nghị định của Tổng thống.
Một phần công việc của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng theo Luật này có thể được ủy thác cho các cơ quan chuyên môn, hiệp hội hoặc tổ chức có liên quan theo quy định tại Nghị định của Tổng thống.
6.3. Coi là công chức trong việc áp dụng hình phạt
Trong trường hợp áp dụng các quy định từ Điều 129 đến Điều 132 của Bộ luật Hình sự, các đối tượng sau được coi là công chức: (1) Ủy viên dân sự trong Ủy ban Chuyển đổi số Công nghiệp; (2) Cán bộ, nhân viên của cơ quan chuyên trách theo Điều 26; (3) Cán bộ, nhân viên của hiệp hội theo Điều 27; (4) Cán bộ, nhân viên của cơ quan chuyên môn, hiệp hội hoặc tổ chức thực hiện công việc được Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng ủy thác.
TS. Nguyễn Văn Cương
Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý
Bộ Tư pháp
Chú thích:
(1). Khi đánh giá hành vi có trái với thông lệ thương mại công bằng hoặc trật tự cạnh tranh hay không, cần xem xét tổng hợp mục đích, tính chất của việc sử dụng dữ liệu công nghiệp, và ảnh hưởng của việc sử dụng đối với giá trị hiện tại hoặc tiềm năng của dữ liệu công nghiệp.