Giới thiệu Luật Chính phủ điện tử của Hàn Quốc (*)

04/09/2025
1. Giới thiệu chung
Ngày nay, chính phủ điện tử (Electronic Government) được hầu hết các quốc gia áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả hành chính, gia tăng khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ hành chính của người dân thông qua công nghệ thông tin - truyền thông (ICT). Chính phủ điện tử không chỉ là việc áp dụng ICT vào xử lý công việc hành chính, mà còn là công cụ trọng yếu cho cải cách hành chính và đổi mới dịch vụ, bao gồm: cải thiện hệ thống vận hành chính phủ, tái cấu trúc tổ chức, điều chỉnh hợp lý chức năng chính phủ, cải thiện phương thức cung cấp dịch vụ.
Ở Hàn Quốc, chính phủ điện tử chính thức được thúc đẩy với việc ban hành Luật Khuyến khích điện tử hóa công việc hành chính để thực hiện chính phủ điện tử (Luật số 6439, ngày 28/3/2001). Tuy nhiên, từ trước đó đã có các luật nền tảng cho sự ra đời của chính phủ điện tử, tiêu biểu là Luật Khuyến khích mở rộng, sử dụng mạng máy tính (năm 1986) và Luật khung về xúc tiến tin học hóa (1995). Ngoài ra, còn có Luật Chữ ký điện tử (nhằm bảo đảm an toàn giao dịch điện tử và thúc đẩy thương mại điện tử), Luật Khuyến khích phát triển phần mềm (tạo điều kiện phát triển ngành phần mềm)… Luật Khuyến khích mở rộng, sử dụng mạng máy tính năm 1986 được ban hành nhằm phát triển, phổ biến, thúc đẩy việc sử dụng mạng máy tính, đặt nền tảng cho xã hội thông tin; là cơ sở pháp lý cho các chính sách về xây dựng mạng thông tin quốc gia trong các lĩnh vực hành chính, quốc phòng, an ninh, tài chính, giáo dục - nghiên cứu, điện toán hóa đăng ký dân cư, phổ cập mạng thông tin hành chính. Luật khung về xúc tiến tin học hóa năm 1995 được ban hành nhằm thống nhất, hiệu quả hóa chính sách xúc tiến tin học hóa quốc gia và công nghiệp thông tin - truyền thông, cũng như triển khai dự án mạng thông tin siêu tốc. Theo Luật này, chính phủ thúc đẩy chính sách trên cơ sở 6 nguyên tắc cơ bản, như mở rộng đầu tư tư nhân, thúc đẩy cạnh tranh công bằng; đồng thời lập và triển khai kế hoạch cơ bản và kế hoạch thực hiện, vận hành Quỹ xúc tiến tin học hóa để triển khai các dự án.
Trên cơ sở đó, khi ban hành Luật Chính phủ điện tử năm 2001, mặc dù mức độ tin học hóa của Hàn Quốc còn thấp so với các nước tiên tiến, nhưng khoảng cách dần thu hẹp nhờ phổ cập máy tính cá nhân, xây dựng mạng thông tin siêu tốc, số người dùng Internet gia tăng nhanh chóng. Trong khu vực công, ngoại trừ một số nghề đặc thù (bảo vệ, lái xe…), đã có 126.200 máy tính được cấp phát (88,5% trong tổng số 143.000 công chức); mạng tốc độ cao của chính phủ đã kết nối giữa các cơ quan hành chính trung ương; chính quyền địa phương đã xây dựng mạng thông tin hành chính.
Ngoài ra, các cơ quan trung ương và địa phương đã áp dụng hệ thống phê duyệt điện tử; tỷ lệ phê duyệt điện tử tại các cơ quan trung ương đạt 55,3%; 95,8% công chức có địa chỉ e-mail.
Tuy nhiên, trước khi Luật Chính phủ điện tử được ban hành, chính sách tin học hóa chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp hạ tầng thông tin tốc độ cao cho người dân và xử lý công việc hành chính bằng máy tính. Mặc dù nền tảng tin học hóa đã có, nhưng quy trình hành chính vẫn dựa chủ yếu vào giấy tờ; việc cung cấp dịch vụ hành chính điện tử, trực tuyến còn hạn chế. Nguyên nhân chính là thiếu cơ sở pháp lý đầy đủ cho xử lý điện tử, ví dụ: có tới hơn 2.000 điều khoản pháp luật chỉ cho phép yêu cầu thủ tục bằng văn bản giấy, khiến việc điện tử hóa dịch vụ hành chính gặp nhiều khó khăn.
Theo đó, từ cuối những năm 1990, bắt đầu xuất hiện các cuộc thảo luận về việc ban hành cơ sở pháp lý nhằm cải thiện quy trình xử lý công việc dựa trên giấy tờ, hướng tới hành chính không giấy tờ và cung cấp dịch vụ hành chính điện tử, qua đó nâng cao năng suất, tính minh bạch và tính dân chủ của Chính phủ. Khi đó, chính quyền Clinton của Hoa Kỳ đã lựa chọn chính phủ điện tử như một chiến lược cải cách chính phủ, khiến cho thảo luận về vấn đề này lan rộng trên toàn cầu và Hàn Quốc cũng bắt đầu đưa chính phủ điện tử trở thành một trong những chính sách trọng điểm của quốc gia nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia, cải thiện dịch vụ công và thúc đẩy cải cách chính phủ. Ví dụ, Chính phủ Hàn Quốc giai đoạn 1993 - 1998 đã xác định Kế hoạch cơ bản về thúc đẩy tin học hóa vào tháng 6 năm 1996, trong đó nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên trong 10 nhiệm vụ lớn là “thực hiện chính phủ điện tử nhỏ gọn nhưng hiệu quả”. Chính phủ Hàn Quốc giai đoạn 1998 - 2003 đưa việc thực hiện chính phủ điện tử vào 100 nhiệm vụ trọng tâm quốc gia, nhấn mạnh chính phủ điện tử như một công cụ để xây dựng quốc gia mạnh về tri thức và thông tin.
Do vậy, cùng với sự nhấn mạnh và thảo luận liên tục, đã hình thành sự đồng thuận rằng cần thiết phải ban hành luật để thúc đẩy chính phủ điện tử một cách ổn định và có hệ thống. Trong bối cảnh đó, Quốc hội và Chính phủ đã thúc đẩy việc lập pháp về Luật Chính phủ điện tử. Để hiện thực hóa tầm nhìn về chính phủ điện tử - cải thiện năng lực cạnh tranh của chính phủ thông qua sự kết hợp giữa công nghệ thông tin và đổi mới phương thức làm việc, đồng thời nâng cao dịch vụ đối với người dân - Chính phủ đã soạn thảo dự luật về Chính phủ điện tử (gồm 7 chương, 49 điều và 1 điều khoản bổ sung) và trình lên Quốc hội ngày 20/11/2000. Ngoài ra, vào ngày 28/11/2000, nghị sĩ Lee Sang-hee cùng 34 nghị sĩ thuộc Đảng Hàn Quốc cũng trình dự luật có nội dung tương tự (7 chương, 48 điều và 1 điều khoản bổ sung).
Trong quá trình thảo luận, Quốc hội quyết định không đưa cả hai dự luật riêng biệt ra biểu quyết mà thay vào đó thông qua một dự luật dung hòa. Ngày 28/2/2001, tại phiên họp toàn thể Quốc hội khóa 218 (kỳ họp bất thường), Quốc hội đã thông qua Luật Khuyến khích điện tử hóa công việc hành chính để thực hiện chính phủ điện tử, và Luật này được Chính phủ công bố thành Luật số 6439 ngày 28/3/2001, có hiệu lực từ ngày 1/7/2001.
Thông qua việc ban hành Luật này, dịch vụ chính phủ điện tử chính thức được thúc đẩy. Sau đó, qua 4 lần sửa đổi, hệ thống pháp lý về chính phủ điện tử đã không chỉ dừng lại ở việc áp dụng công nghệ thông tin - truyền thông vào công việc hành chính, mà còn được đánh giá là đã đóng góp lớn vào cải cách hành chính và đổi mới dịch vụ công, bao gồm cải thiện hệ thống vận hành chính phủ, tái cấu trúc tổ chức, điều chỉnh hợp lý chức năng chính phủ, và cải thiện phương thức cung cấp dịch vụ.
Nội dung chính khi ban hành Luật khuyến khích điện tử hóa công việc hành chính để thực hiện chính phủ điện tử (sau đây gọi là “Luật Khuyến khích chính phủ điện tử”) bao gồm: (1) Xác định nguyên tắc, thủ tục và phương thức thúc đẩy việc xử lý hành chính điện tử, nhằm thúc đẩy các dự án chính phủ điện tử, nâng cao năng suất, tính minh bạch và tính dân chủ của cơ quan hành chính, qua đó cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân trong thời đại thông tin; (2) Định nghĩa “chính phủ điện tử” là “chính phủ thực hiện công việc hành chính của mình dưới dạng điện tử bằng cách sử dụng công nghệ thông tin, qua đó thực hiện công việc hành chính giữa các cơ quan hành chính hoặc đối với người dân một cách hiệu quả”; (3) Đưa ra các nguyên tắc về việc thực hiện và vận hành chính phủ điện tử, gồm:
1. Nguyên tắc lấy tiện ích của người dân làm trung tâm (Điều 6),
2. Nguyên tắc đổi mới công việc đi trước (Điều 7),
3. Nguyên tắc công khai thông tin hành chính (Điều 9),
4. Nguyên tắc xác nhận của cơ quan hành chính (Điều 10),
5. Nguyên tắc sử dụng chung thông tin hành chính (Điều 11),
6. Nguyên tắc bảo vệ thông tin cá nhân (Điều 12),
7. Nguyên tắc ngăn ngừa trùng lặp phát triển phần mềm (Điều 13),
8. Nguyên tắc phát triển công nghệ và thuê ngoài vận hành (Điều 14).
Ngoài ra, Luật còn quy định rằng Quốc hội, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, Ủy ban Bầu cử Trung ương phải xây dựng và thực hiện các biện pháp cần thiết để thực hiện các nguyên tắc này (Điều 15).
Các nội dung chi tiết bao gồm: (1) Điện tử hóa quản lý hành chính quốc gia; (2) Giảm thiểu giấy tờ hành chính thông qua điện tử hóa công việc; (3) Quy trình sử dụng chung thông tin hành chính; (4) Xử lý đơn thư và dịch vụ hành chính không cần người dân trực tiếp đến cơ quan. Ví dụ: (1) Luật mở rộng phạm vi “chính phủ” bao gồm cả các cơ quan hiến định như Quốc hội, Tòa án (Điều 2); (2) Quy định tái thiết kế tổ chức và quy trình công việc để phù hợp với việc áp dụng công nghệ thông tin (Điều 24); (3) Cho phép công chức sử dụng mạng thông tin để làm việc và đào tạo (Điều 30); (4) Quy định giảm thiểu tối đa văn bản giấy: văn bản hành chính phải được lập và quản lý dưới dạng văn bản điện tử, với mẫu biểu phù hợp (Điều 16); văn bản điện tử sử dụng con dấu điện tử, trong khi giao dịch hành chính điện tử sử dụng chữ ký điện tử theo Luật Chữ ký điện tử (Điều 20); (5) Cơ quan hành chính phải lập kế hoạch cắt giảm văn bản giấy và thực hiện theo kế hoạch đó (Điều 40 - 44). Ngoài ra, để xử lý các yêu cầu của người dân, cơ quan hành chính phải sử dụng chung các thông tin hành chính cần thiết như thống kê, tư liệu (Điều 21, 22). Cuối cùng, ngay cả khi các luật khác yêu cầu nộp hồ sơ, đơn từ bằng văn bản giấy, thì Luật này cho phép thay thế bằng văn bản điện tử (Điều 33), đồng thời buộc các cơ quan hành chính cải thiện pháp luật và cơ sở vật chất để người dân có thể giải quyết thủ tục mà không cần đến trực tiếp, và quy định việc thiết lập, vận hành cổng dịch vụ hành chính điện tử (Điều 34).
2. Các sửa đổi chính kể từ khi ban hành Luật Chính phủ điện tử năm 2001
Thứ nhất, áp dụng chữ ký điện tử hành chính và giảm gánh nặng nộp hồ sơ cho người dân: Trong lần sửa đổi ngày 15/5/2003, Luật Khuyến khích chính phủ điện tử (gọi là “Luật sửa đổi năm 2003”) đã: (1) Định nghĩa và quy định “chữ ký điện tử hành chính” (전자관인) để công chức có thể sử dụng làm chữ ký điện tử trong công vụ (Điều 2(6), Điều 20); (2) Cho phép các cơ quan xử lý trực tiếp thủ tục hành chính (Quốc hội, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, Ủy ban Bầu cử Trung ương, cơ quan hành chính trung ương) nhận trực tiếp hồ sơ cần thiết từ cơ quan cấp phát dưới dạng điện tử, nhằm giảm số lần người dân phải đến cơ quan và giảm số giấy tờ phải nộp (Điều 33-2(1)); (3) Khi thông tin hồ sơ có thể được xác minh qua việc sử dụng chung thông tin hành chính, thì không yêu cầu nộp thêm hồ sơ giấy (Điều 33-2(3)).
Thứ hai, sửa đổi tên thành “Luật Chính phủ điện tử” và đa dạng hóa chính sách: Ban đầu, tên “Luật Khuyến khích chính phủ điện tử” phù hợp vì giai đoạn đầu chủ yếu tập trung vào giảm giấy tờ. Tuy nhiên, sau khi hạ tầng chính phủ điện tử đã được triển khai rộng rãi, nội dung sửa đổi lần thứ hai không chỉ tiếp tục giảm giấy tờ, mà còn bao gồm: điện tử hóa dịch vụ hành chính cho người dân, tăng cường hệ thống an ninh, đa dạng hóa các dự án hỗ trợ chính phủ điện tử. Do đó, tên Luật được đổi thành “Luật Chính phủ điện tử”.
Ngoài ra, để khắc phục hạn chế trong việc chỉ trao đổi văn bản điện tử và thông tin hành chính giữa các cơ quan hành chính, sửa đổi lần thứ hai đã: (1) Mở rộng đối tượng sử dụng văn bản điện tử và thông tin hành chính sang cả các cơ quan công cộng và cơ quan do Tổng thống chỉ định (Điều 2, 18, 20, 22-2); (2) Cho phép các cơ quan này phát hành và sử dụng chữ ký điện tử hành chính, góp phần giảm mạnh giấy tờ và nâng cao dịch vụ công.
Các sửa đổi khác bao gồm: (1) Khi xử lý công việc qua cổng dịch vụ hành chính điện tử, có thể giảm hoặc miễn phí lệ phí (Điều 38(4), (5)); (2) Bộ trưởng Bộ Hành chính và An toàn lập biện pháp an ninh liên quan đến dịch vụ công, đồng thời thành lập Ủy ban An ninh Dịch vụ Chính phủ điện tử trực thuộc để thẩm định (Điều 39-2, 39-3); (3) Cấm hành vi làm giả, sửa đổi thông tin hành chính và tiết lộ phương thức; quy định chế tài xử phạt (Điều 22-3, 51-2, 51-3); (4) Khi cơ quan hành chính trung ương phát triển hệ thống thông tin để cung cấp cho chính quyền địa phương, phải tham khảo ý kiến trước với Bộ Hành chính và các cơ quan liên quan, nhằm ngăn ngừa đầu tư trùng lặp (Điều 45-3).
Thứ ba, tích hợp các chức năng liên quan đến chính phủ điện tử và cung cấp dịch vụ chính phủ điện tử có hệ thống
Theo cuộc cải tổ tổ chức chính phủ tháng 2/2008, các chức năng tin học hóa quốc gia và bảo mật thông tin của Bộ Thông tin - Truyền thông (cũ) được chuyển giao sang Bộ Hành chính và An toàn. Từ đó, để thúc đẩy hiệu quả hơn các chức năng liên quan đến tin học hóa, đã nảy sinh nhu cầu tái cơ cấu: phần tin học hóa quốc gia tập trung vào Luật khung về xúc tiến tin học hóa, còn tin học hóa trong khu vực công thì dựa trên luật chung là Luật Chính phủ điện tử.
Hơn nữa, Luật Chính phủ điện tử trước đó chủ yếu tập trung vào xây dựng hạ tầng, nên bộc lộ hạn chế trong việc ứng phó với các xu hướng mới như Web 2.0 (nếu Web 1.0 chỉ là tập hợp các website tĩnh, thì Web 2.0 là mô hình chia sẻ và tham gia thông tin hai chiều trên Internet), các công nghệ IT mới, và môi trường thông tin ngập tràn khắp nơi. Do vậy, để tích hợp các chức năng phân tán, quy định có hệ thống, phản ánh các xu thế đổi mới và hội tụ công nghệ, đồng thời thúc đẩy và phát triển chính phủ điện tử một cách hiệu quả, lần sửa đổi toàn diện thứ ba đã được thực hiện.
Lần sửa đổi này đã thay thế toàn bộ 63 điều của Luật Chính phủ điện tử cũ thành 78 điều, vẫn giữ nguyên 7 chương. Luật trước đây chủ yếu quy định các thủ tục để tiếp nhận - xử lý đơn thư trực tuyến, nhưng Luật sửa đổi lần thứ ba đã quy định có hệ thống về dịch vụ chính phủ điện tử để người dân có thể cảm nhận hiệu quả rõ rệt. Cụ thể: (1) Không chỉ tiếp nhận - xử lý đơn thư trực tuyến, mà còn quy định việc phát triển, cung cấp và quản lý hiệu quả các dịch vụ chính phủ điện tử phục vụ phúc lợi, an toàn, thúc đẩy hoạt động doanh nghiệp, thông qua khảo sát - phân tích tình hình sử dụng (Điều 7 - 24); (2) Quy định rõ về việc sử dụng chung thông tin hành chính giữa các cơ quan, thủ tục, đối tượng, và đặc biệt với thông tin cá nhân thì phải có sự đồng ý trước của chủ thể dữ liệu và bảo đảm quyền yêu cầu truy cập, đồng thời cấm các hành vi lạm dụng (Điều 36 - 44); (3) Để khắc phục các vấn đề như rò rỉ thông tin, trùng lặp xây dựng hệ thống, đã quy định biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin, xây dựng kiến trúc công nghệ thông tin (ITA) làm cơ sở để triển khai dự án chính phủ điện tử, nhằm quản lý thống nhất nguồn lực thông tin của cơ quan hành chính (Điều 45 - 63); (4) Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả, Luật quy định thủ tục tham vấn liên cơ quan trước khi triển khai dự án, yêu cầu phân tích kết quả, cho phép các cơ quan chuyên môn hỗ trợ kỹ thuật, qua đó liên kết kế hoạch - kết quả nhằm ngăn chặn đầu tư trùng lặp (Điều 64 - 75).
Thứ tư, bổ sung quy định về ủy thác quản lý - giám sát dự án chính phủ điện tử: Trong lần sửa đổi thứ tư ngày 5.4.2013, Luật cho phép ủy thác công tác quản lý - giám sát dự án chính phủ điện tử cho những cá nhân/tổ chức có kiến thức và năng lực kỹ thuật, nhằm giúp các cơ quan hành chính thực hiện dự án hiệu quả và chuyên nghiệp hơn (Điều 64-2). Các dự án có thể ủy thác gồm: (1) Dự án có ảnh hưởng lớn đến dịch vụ công và hiệu quả hành chính; (2) Dự án phức tạp, cần quản lý đặc biệt; (3) Trường hợp người đứng đầu cơ quan hành chính thấy cần thiết để đảm bảo triển khai thuận lợi. Khi lựa chọn đơn vị quản lý, phải xét đến nguồn nhân lực, kế hoạch thực hiện, và kinh nghiệm quản lý dự án chính phủ điện tử.
Thứ năm, quản lý - cung cấp thông tin đời sống và danh mục dịch vụ công qua cổng điện tử thống nhất: Trong lần sửa đổi năm 2014, để cung cấp dịch vụ hành chính tùy chỉnh, lấy người dân làm trung tâm, Luật quy định: (1) Thông qua cổng dịch vụ điện tử thống nhất, người dân có thể tra cứu thông tin đời sống như khám sức khỏe, nộp thuế và các loại phí; (2) Người đứng đầu cơ quan hành chính trung ương có thể cung cấp danh mục dịch vụ công (hàng hóa, dịch vụ) cho người dân; (3) Bộ trưởng Bộ Hành chính và An toàn có thể xây dựng hệ thống nền tảng dữ liệu dùng chung để cơ quan hành chính khai thác dữ liệu an toàn.
Thứ sáu, quyền yêu cầu cung cấp thông tin hành chính cá nhân và ứng dụng AI trong dịch vụ chính phủ điện tử: Trong lần sửa đổi năm 2021, Luật bổ sung: (1) Chủ thể dữ liệu có quyền yêu cầu cơ quan hành chính cung cấp thông tin hành chính liên quan đến bản thân cho chính mình hoặc cho bên thứ ba được chỉ định; (2) Người đứng đầu cơ quan hành chính được phép ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo khi cung cấp dịch vụ chính phủ điện tử.
Thứ bảy, nâng cao hiệu lực của chế độ khuyến nghị cải tiến dịch vụ chính phủ điện tử: Trong lần sửa đổi năm 2023, Luật quy định các biện pháp nâng cao hiệu quả của chế độ khuyến nghị cải tiến dịch vụ chính phủ điện tử do người đứng đầu cơ quan trung ương quản lý, nhằm tăng cường hiệu quả hành chính và cung cấp dịch vụ chính phủ điện tử cho người dân một cách hệ thống hơn.
3. Nội dung chủ yếu của Luật Chính phủ điện tử hiện hành
Như đã trình bày, Luật Chính phủ điện tử hiện hành về cơ bản vẫn duy trì nội dung sửa đổi toàn diện lần thứ ba (2010.2.4), ngoại trừ việc bổ sung quy định ủy thác quản lý - giám sát dự án (2013). Luật gồm 7 chương, bao gồm: (1) Quy định chung; (2) Cung cấp và sử dụng dịch vụ chính phủ điện tử; (3) Quản lý hành chính điện tử; (4) Sử dụng chung thông tin hành chính; (5) Tăng cường nền tảng vận hành chính phủ điện tử; (6) Thúc đẩy chính sách thực hiện chính phủ điện tử; và (7) Quy định về hình phạt.
3.1. Quy định chung
Luật Chính phủ điện tử, với mục tiêu thúc đẩy thực hiện chính phủ điện tử hiệu quả, nâng cao năng suất, tính minh bạch, dân chủ của hành chính, cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, là luật chung về chính phủ điện tử và được áp dụng cho mọi vấn đề liên quan, trừ khi có quy định khác trong luật chuyên ngành. Theo Luật này, “chính phủ điện tử” là “chính phủ sử dụng công nghệ thông tin để điện tử hóa công việc của cơ quan chính quyền và cơ quan công, qua đó thực hiện hiệu quả công việc hành chính giữa các cơ quan hoặc đối với người dân”. “Cơ quan chính quyền” bao gồm: Quốc hội, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, Ủy ban Bầu cử Trung ương, các cơ quan hành chính trung ương (bao gồm cơ quan trực thuộc) và chính quyền địa phương. “Cơ quan công” bao gồm: tổ chức theo Luật Quản lý vận hành cơ quan công (Điều 4), doanh nghiệp và đoàn thể địa phương theo Luật Doanh nghiệp công địa phương, pháp nhân đặc biệt theo luật riêng, các trường học theo Luật Giáo dục tiểu học - trung học, Luật Giáo dục đại học. Ví dụ: Ngân hàng Hàn Quốc (theo Luật Ngân hàng Hàn Quốc), Đài truyền hình KBS (theo Luật Phát thanh truyền hình), các trường tiểu học, trung học, phổ thông, trường chuyên biệt (theo Luật Giáo dục tiểu học - trung học).
Ngoài ra, Luật quy định trách nhiệm của các cơ quan chính quyền và công chức nhằm thúc đẩy việc thực hiện chính phủ điện tử, đồng thời xác định các nguyên tắc chính phủ điện tử cần được ưu tiên xem xét khi cơ quan chính quyền thúc đẩy việc thực hiện, vận hành và phát triển chính phủ điện tử. Các nguyên tắc này bao gồm: (1) Điện tử hóa dịch vụ công và nâng cao tiện ích cho người dân; (2) Đổi mới công việc hành chính và nâng cao năng suất, hiệu quả; (3) Bảo đảm an toàn và độ tin cậy của hệ thống thông tin; (4) Bảo vệ thông tin cá nhân và đời tư; (5) Mở rộng công khai và sử dụng chung thông tin hành chính; (6) Ngăn ngừa đầu tư trùng lặp và tăng cường khả năng tương tác (Điều 3, Điều 4).
Thêm vào đó, Bộ trưởng Bộ Hành chính và An toàn phải xây dựng “Kế hoạch cơ bản về chính phủ điện tử” để thông báo cho các cơ quan chính quyền, và khi người đứng đầu các cơ quan chính quyền trung ương lập và thực hiện kế hoạch hành động về trí tuệ thông tin theo Điều 7 của Luật khung về trí tuệ thông tin, thì phải xem xét đến kế hoạch này (Điều 5).
3.2. Cung cấp và sử dụng dịch vụ chính phủ điện tử
Chương 2 (Điều 7 - Điều 24) quy định về việc nộp đơn và cung cấp dịch vụ chính phủ điện tử, cũng như khuyến khích việc sử dụng các dịch vụ này. Theo đó:
- Về dịch vụ chính phủ điện tử, ngay cả trong trường hợp pháp luật yêu cầu nộp đơn hoặc thông báo bằng văn bản giấy, thì vẫn có thể thực hiện bằng văn bản điện tử. Tương tự, khi kết quả cung cấp dịch vụ được yêu cầu phải thông báo bằng giấy, thì nếu người sử dụng yêu cầu hoặc đã nộp đơn bằng điện tử, cũng có thể thông báo bằng văn bản điện tử (Điều 7).
- Điều 13 quy định cơ sở pháp lý để cung cấp thông tin hành chính dưới dạng điện tử và thu phí dịch vụ khi cần thiết.
- Ngoài ra, đối với thuế, phí, tiền phạt… vốn trước đây chỉ nộp bằng tiền mặt, tem thuế, chứng chỉ thuế…, thì nay được phép nộp bằng tiền điện tử, thanh toán điện tử thông qua mạng viễn thông. Việc cung cấp các khoản cấp phát, dịch vụ… cũng có thể thực hiện thông qua mạng viễn thông (Điều 14, Điều 15).
Về việc cung cấp và khuyến khích sử dụng dịch vụ chính phủ điện tử:
- Người đứng đầu các cơ quan hành chính phải cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực hành chính, giao thông, phúc lợi, môi trường, an toàn thiên tai… mà người dân và doanh nghiệp có thể sử dụng mọi lúc, mọi nơi bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến. Đây chính là dịch vụ chính phủ điện tử có mặt ở khắp nơi (Điều 18).
- Nhà nước phải xây dựng, quản lý và thúc đẩy việc sử dụng cổng thông tin điện tử chính phủ (e-Government Portal) để cung cấp dịch vụ hiệu quả cho người dân (Điều 20).
- Người đứng đầu các cơ quan hành chính phải tiến hành khảo sát định kỳ về tình hình sử dụng dịch vụ chính phủ điện tử; Bộ trưởng Bộ Hành chính và An toàn có thể khuyến nghị phương án cải tiến đối với những dịch vụ chính phủ điện tử tương tự hoặc trùng lặp để quản lý hiệu quả (Điều 22, Điều 23).
3.3. Quản lý hành chính điện tử
Chương 3 (Điều 25 - Điều 35) quy định về việc lập, hiệu lực, thời điểm gửi và nhận văn bản điện tử, chứng thực chữ ký điện tử hành chính, thực hiện công việc điện tử, cũng như việc giảm thiểu văn bản giấy. Theo đó:
- Văn bản của cơ quan hành chính, trừ trường hợp có tính chất đặc thù, phải được lập, gửi, nhận, lưu giữ và sử dụng dưới dạng văn bản điện tử (Điều 25).
- Văn bản điện tử của cơ quan hành chính có hiệu lực khi được phê duyệt, và trừ khi pháp luật có quy định khác, chúng có giá trị pháp lý tương đương văn bản giấy (Điều 26).
- Văn bản điện tử được coi là đã gửi khi thời điểm gửi được hệ thống thông tin ghi nhận; được coi là đã nhận khi được nhập vào hệ thống thông tin do người nhận chỉ định (Điều 28).
- Người đứng đầu cơ quan hành chính có thể xây dựng - vận hành hệ thống điện tử để quản lý và khai thác các thông tin quan trọng phục vụ cho việc ra quyết định chính sách (Điều 30).
- Có thể sử dụng hình thức họp trực tuyến qua mạng thông tin trong xử lý công việc hành chính (Điều 32).
- Người đứng đầu cơ quan hành chính phải lập kế hoạch giảm tối đa việc lập, tiếp nhận, lưu trữ văn bản giấy và liên tục thúc đẩy việc giảm thiểu giấy tờ thông qua điện tử hóa và sử dụng chung thông tin (Điều 33).
3.4. Sử dụng chung thông tin hành chính
Chương 4 (Điều 36 - Điều 44) quy định về đối tượng, phương thức, thủ tục sử dụng chung thông tin hành chính; với thông tin cá nhân phải có sự đồng ý trước của chủ thể, đồng thời bảo đảm quyền yêu cầu tra cứu để cá nhân kiểm soát thông tin của mình. Theo đó:
- Người đứng đầu cơ quan hành chính phải chia sẻ thông tin với các cơ quan khác có nhu cầu; không được thu thập lại nếu đã có thông tin đáng tin cậy từ cơ quan khác (Điều 36).
- Bộ trưởng Bộ Hành chính và An toàn phải thành lập Trung tâm chia sẻ thông tin hành chính để thúc đẩy sử dụng chung (Điều 37).
- Thông tin hành chính có thể chia sẻ gồm: thông tin cần cho xử lý đơn thư, thông tin thống kê - tư liệu - chính sách, hoặc thông tin không thể thiếu để thực hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật (Điều 38).
3.5. Tăng cường nền tảng vận hành chính phủ điện tử
Chương 5 (Điều 45 - Điều 75) quy định việc thúc đẩy dự án chính phủ điện tử dựa trên kiến trúc công nghệ thông tin (ITA), quản lý thống nhất nguồn lực thông tin, và bảo đảm an toàn - độ tin cậy của hệ thống. Cụ thể:
- Về ITA, Bộ trưởng Bộ Hành chính và An toàn phải xây dựng kế hoạch cơ bản cho việc áp dụng - phổ biến ITA, lập Kiến trúc công nghệ thông tin toàn chính phủ, và ban hành hướng dẫn về việc áp dụng - vận hành ITA và xây dựng - vận hành hệ thống thông tin (Điều 45).
- Người đứng đầu cơ quan hành chính phải lập kế hoạch áp dụng ITA phản ánh nội dung kế hoạch cơ bản và nộp cho Bộ trưởng Bộ Hành chính và An toàn (Điều 46).
- Để bảo đảm khả năng tương tác và phù hợp kỹ thuật, các cơ quan phải tiến hành đánh giá kỹ thuật trong quá trình xây dựng - vận hành hệ thống (Điều 49).
- Quốc hội, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, Ủy ban Bầu cử Trung ương phải xây dựng biện pháp bảo mật nhằm bảo đảm an toàn và độ tin cậy của mạng thông tin và dữ liệu hành chính cần cho chính phủ điện tử; đồng thời mỗi cơ quan phải xây dựng và thực hiện kế hoạch bảo mật riêng (Điều 56).
- Với hệ thống thông tin có đặc điểm và quy mô nhất định theo quy định của Tổng thống, cơ quan phải ủy thác việc kiểm toán hệ thống cho công ty kiểm toán CNTT (Điều 57).
3.6. Thúc đẩy chính sách thực hiện chính phủ điện tử
Chương 6 (Điều 64 - Điều 75) quy định các biện pháp thúc đẩy dự án chính phủ điện tử và tiêu chí cụ thể để lựa chọn các dự án hỗ trợ, theo đó:
- Người đứng đầu cơ quan hành chính phải chủ động thúc đẩy các dự án chính phủ điện tử. Bộ trưởng Bộ Hành chính và An toàn có thể hỗ trợ hành chính, tài chính, kỹ thuật để các cơ quan thực hiện hiệu quả các dự án này, đồng thời phải xét đến sự phù hợp với chính sách chính phủ điện tử khi lựa chọn các dự án hỗ trợ (Điều 64).
- Nhà nước và chính quyền địa phương có thể thúc đẩy các dự án tin học hóa khu vực như phát triển và phổ biến dịch vụ thông tin về lịch sử, văn hóa, phúc lợi, môi trường… nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh khu vực và nâng cao chất lượng đời sống của cư dân (Điều 65) .
TS. Nguyễn Văn Cương
Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý

(*) Các thông tin trong bài viết được tham khảo từ cuốn sách “The History of the Laws of the Republic of Korea 1948-2023: Government Administration Sector” do Bộ Lập pháp Hàn Quốc xuất bản năm 2024 và một số tài liệu khác có liên quan.