Những dấu mốc quan trọng trong quá trình 80 hình thành và phát triển của Bộ, ngành Tư pháp.
Ngày 28/8/1945, trong cao trào Cách mạng tháng Tám, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo ra Tuyên cáo trước Quốc dân đồng bào, cũng như toàn thế giới, về việc thành lập Nội các Thống nhất quốc gia.
Nội các gồm 13 Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp do ông Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng.
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta đã đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa” - Lời trong bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ lâm thời sau phiên họp Chính phủ đầu tiên ngày 03/9/1945 (Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh, đứng thứ hai, hàng thứ 2 từ phải qua). Ảnh: TTXVN
Ngày 28/8/1945 đã trở thành dấu mốc đánh dấu sự ra đời, khai sinh nền tư pháp của một nước Việt Nam mới - nước Việt Nam độc lập do người dân làm chủ. Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã cùng các thành viên khác của Chính phủ lâm thời ký tên dưới Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
Ngày 07/11/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 715-TTg về Ngày truyền thống ngành Tư pháp, trong đó tại Điều 1 quy định hằng năm lấy ngày 28/8 là "Ngày truyền thống của ngành Tư pháp".
Ngày 30/11/1945, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh ban hành Nghị định số 37 - Nghị định đầu tiên về tổ chức Bộ Tư pháp.
Nghị định gồm 4 điều, quy định tổ chức Bộ Tư pháp gồm có một Văn phòng và 5 phòng sự vụ: (1) Phòng Nhất: Phòng Sự vụ nội bộ; (2) Phòng Nhì: Phòng Viên chức và Kế toán; (3) Phòng Ba: Phòng Giám đốc hộ vụ; (4) Phòng Tư: Phòng Giám đốc hình vụ; (5) Phòng Năm: Phòng Giám đốc quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân.
Bộ Tư pháp đảm nhiệm những chức năng rất cơ bản về bảo đảm quyền dân chủ của con người, thông qua những quy định về thẩm quyền trong việc bắt, điều tra, truy tố, xét xử, giam, tha phạm nhân, thẩm quyền tổ chức các tòa án dân sự, thương sự, hình sự, công việc thực hiện các hiệp định tương trợ và ủy thác tư pháp với nước ngoài, thẩm quyền tổ chức và quản lý các chức danh tư pháp.
Trong những ngày đầu mới thành lập, Bộ Tư pháp đã kịp thời kiến nghị ban hành Sắc lệnh về việc giữ lại các luật lệ cũ để áp dụng với điều kiện không được phương hại quyền lợi của nhân dân và nền độc lập của đất nước; xây dựng, trình Chủ tịch nước ban hành các văn bản về chế độ tư pháp mới, thiết lập hệ thống toà án và các ngạch thẩm phán, tiến hành tuyển chọn những thẩm phán đầu tiên của chế độ mới.
Ngày 19/7/1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án.
Có thể nói, đây là văn bản đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm quyền và thể thức thi hành bản án. Ghi nhận sự kiện này, năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 19/7 hàng năm là Ngày truyền thống Thi hành án dân sự.
Bìa Hiến pháp 1946.
Các đại biểu Quốc hội dự Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I tại Nhà hát lớn Hà Nội, ngày 2/3/1946.

Một số vật dụng của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội khóa I, tại Kỳ họp thứ 2 đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới. Bản Hiến pháp có công lao đóng góp rất lớn của Bộ Tư pháp và cá nhân Luật sư Vũ Trọng Khánh (từ ngày 2/3/1946, Bộ trưởng Bộ Tư pháp là ông Vũ Đình Hòe).
Hiến pháp 1946 gồm có Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều, trong đó có nhiều điều liên quan trực tiếp đến công việc tư pháp.
Năm 2012, Quốc hội đã thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó tại Điều 8 quy định: Ngày 9 tháng 11 hằng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày Pháp luật được tổ chức nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội.

Ngày 29/12/1946, trong bối cảnh Toàn quốc kháng chiến (Kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngày 19/12/1946), Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông lệnh số 12/NV-CT về tổ chức tư pháp trong tình thế đặc biệt.
Theo đó, ở mỗi khu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đặt một Giám đốc tư pháp để trông coi việc tư pháp trong khu và giúp ý kiến cho Ủy ban bảo vệ khu mỗi khi ra quyết nghị có liên can đến tư pháp. Giám đốc tư pháp đặt dưới quyền kiểm soát của Ủy ban bảo vệ khu và trong trường hợp không liên lạc được với Trung ương thì Giám đốc tư pháp đặt dưới quyền điều khiển của Ủy ban bảo vệ khu.
Tháng 2/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị tư pháp toàn quốc lần thứ IV (diễn ra từ ngày 25-27/2/1948 tại An toàn Khu Việt Bắc). Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trong cuộc kháng chiến này, các bạn đã góp một phần lực lượng lớn. Từ Bộ trưởng, Thứ trưởng đến toàn thể nhân viên, ai cũng chịu khổ, chịu khó, tận tụy hy sinh, để làm tròn nhiệm vụ. Đó là một sự vẻ vang cho giới tư pháp ta”.
Người căn dặn: “...Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cái gương “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”.
Tháng 5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với Hội nghị học tập tư pháp trung ương (tổ chức tại xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, trụ sở của Bộ Tư Pháp từ 1949 - 1950).
Về trách nhiệm của cán bộ tư pháp, Bác nói: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ”.
Năm 2010, Khu Di tích của Bộ Tư pháp đã được xây dựng tại địa điểm Thôn Mới, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Nơi đây trở thành "Địa chỉ về nguồn" của Bộ, ngành Tư pháp.
Ngày 22/5/1950, Sắc lệnh 85-SL cải cách bộ máy tư pháp và luật Tố tụng do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Công Tường là người tổ chức soạn thảo và tiếp ký.
Ngày 10/5/1952, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Nghị định số 48-NĐ/P2 về tổ chức cơ quan trung ương Bộ Tư pháp. Theo đó, cơ quan trung ương Bộ Tư pháp gồm có 4 đơn vị trực thuộc: Văn phòng; Vụ Hành chính tư pháp; Vụ Hình hộ; Ban Nghiên cứu pháp luật.
Một trong những điểm nhấn của Sắc lệnh này làm thay đổi về chất của công tác tư pháp chính là sự vận dụng lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, làm sâu sắc hơn bản chất nhân dân của hệ thống tòa án và nền tư pháp trong chế độ mới.
Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp giai đoạn này tập trung vào công việc nghiên cứu và dự thảo các luật lệ, tham gia ý kiến vào các dự án luật lệ do bộ khác chuẩn bị, phổ biến các tài liệu pháp lý dân chủ mới; tổ chức và xây dựng bộ máy tư pháp (Tòa án các cấp, tư pháp xã, tư pháp vùng địch), trại giam, giáo hóa phạm nhân; nghiên cứu và đề nghị đường lối truy tố xét xử và hòa giải, xây dựng án lệ, giải thích luật áp dụng trước tòa án.

Nhân kỷ niệm 79 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp (28/8/1945 - 28/8/2024), sáng 28/8/2024, Đoàn công tác của Bộ Tư pháp do đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng đoàn, đến dâng hương tại Khu di tích lịch sử của Bộ Tư pháp tại tỉnh Tuyên Quang.
Ngày 26/10/1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 506-TTg về việc tổ chức các cơ quan pháp chế.
Theo đó, cơ quan pháp chế gồm có Vụ Pháp chế; các bộ phận pháp chế ở các Bộ; các bộ phận pháp chế ở các Văn phòng Ủy ban Hành chính khu, tỉnh và thành phố.
Nhiệm vụ của các bộ phận pháp chế ở các Bộ là: Nghiên cứu về mặt pháp lý các dự thảo luật lệ do các bộ phận chuyên môn hay các cơ quan thuộc Bộ thảo ra để Bộ ban hành hoặc gửi lên cấp trên xét duyệt; Nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến công tác của Bộ; nghiên cứu góp ý kiến về mặt pháp lý vào các dự thảo luật lệ chung của cơ quan khác gửi đến; Làm các thủ tục về việc ban hành các nghị định, thông tư của Bộ; Góp ý kiến với các cơ quan thuộc Bộ và các cơ quan chính quyền và đoàn thể sở quan để phổ biến trong cán bộ và nhân dân các luật lệ của Chính phủ và của Bộ ban hành; Sưu tầm các luật lệ, soát lại các văn bản của Bộ và cơ quan trực thuộc về mặt pháp lý. Đề nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ những văn bản ban hành không hợp lệ hoặc trái với các luật lệ hiện hành và các nguyên tắc pháp lý chung.
Nhiệm vụ của bộ phận pháp chế của Văn phòng Ủy ban khu, tỉnh, thành phố như sau: Nghiên cứu về mặt pháp lý các dự thảo, nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị của Ủy ban; Phối hợp với các cơ quan chính quyền và đoàn thể để phổ biến trong cán bộ và nhân dân các luật lệ của cấp trên và của Ủy ban Hành chính ban hành; Sưu tầm các luật lệ cần thiết cho Ủy ban. Soát lại các văn bản của cơ quan chính quyền cấp dưới về mặt pháp lý.
Ngày 14/7/1960, Quốc hội khóa II, tại Kỳ họp thứ nhất, đã thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ. Theo Luật này, trong Hội đồng Chính phủ không có Bộ Tư pháp.
Trong suốt 20 năm tiếp theo, công tác tham mưu về pháp luật và xây dựng pháp luật của Chính phủ do ngành Pháp chế đảm trách.
Ở miền Bắc, các cơ quan pháp chế đã tích cực triển khai công tác tham mưu về pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân. Ở cơ sở, các Ban Tư pháp chú trọng công tác hòa giải, phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, trật tự xã hội, động viên tinh thần, lực lượng cho cuộc kháng chiến.
Từ tháng 9/1972, Ủy ban Pháp chế được thành lập để giúp Hội đồng Chính phủ quản lý thống nhất công tác pháp luật và pháp chế, đặc biệt là trong việc xây dựng pháp luật phục vụ quản lý nhà nước về kinh tế, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; xây dựng hệ thống tổ chức pháp chế ở các Bộ, Tổng cục, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quản lý đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật.
Ở miền Nam, năm 1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời. Bộ Tư pháp là một trong 9 Bộ của Chính phủ lâm thời. Sau khi đất nước thống nhất, Ủy ban Pháp chế, dưới sự lãnh đạo của các đồng chí Trần Công Tường, Nguyễn Ngọc Minh, Trần Quang Huy... đã tiếp nhận bàn giao công việc của Bộ Tư pháp thuộc Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng ở Trung ương rà soát, lập và trình Hội đồng Chính phủ công bố Danh mục pháp luật thống nhất áp dụng trong cả nước, bao gồm các văn bản pháp luật còn hiệu lực, để phổ biến và thi hành, tạo nên sự thống nhất về mặt pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Tháng 11/1981, trên cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ Tư pháp được tái thành lập theo Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng để kế thừa, mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Pháp chế, đồng thời tiếp nhận lại nhiệm vụ quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức.
Hệ thống tư pháp trong cả nước gồm có Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp cấp tỉnh, Ban Tư pháp ở cấp huyện và Ban Tư pháp ở cấp xã. Ở các Bộ, các Ủy ban Nhà nước và một số cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng có Vụ Pháp chế; ở các Sở chuyên môn, liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty, xí nghiệp có cố vấn pháp luật.
Bộ máy của Bộ Tư pháp gồm: Vụ Xây dựng pháp luật (tổ chức theo lĩnh vực cần thiết); Vụ Tuyên truyền, giáo dục pháp luật (có tạp chí của Bộ và Nhà xuất bản Pháp lý); Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý; Vụ Quản lý tòa án; Vụ Quản lý các tổ chức tư pháp khác; Vụ Tổ chức và cán bộ; Vụ Đào tạo; Văn phòng; Trường Đại học Pháp lý và các đơn vị trực thuộc khác của Bộ.
Dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Phan Hiền và tập thể lãnh đạo Bộ, với đội ngũ cán bộ tư pháp được bổ sung những luật gia trẻ, được đào tạo từ các nước XHCN anh em, cùng với các luật gia, luật sư, thẩm phán dưới chế độ cũ, tự nguyện phục vụ nền tư pháp xã hội chủ nghĩa, công tác tư pháp được đẩy mạnh trên cả nước Việt Nam thống nhất.
Ngày 17/4/1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự (THADS). Từ Pháp lệnh này, nhiệm vụ THADS được chuyển cho một hệ thống cơ quan nhà nước mới thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/7/1993 - đó là hệ thống cơ quan THADS.
Tiếp đó, ngày 02/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/CP về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác THADS và chấp hành viên.
Việc chuyển giao công tác THADS từ Tòa án nhân dân sang Chính phủ và được giao cho Bộ Tư pháp thực hiện phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta, nhằm thống nhất quản lý công tác hành chính - tư pháp vào Chính phủ, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Ngày 06/6/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.
Theo Nghị định này, Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
Bộ, ngành Tư pháp có thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn mới. Riêng nhiệm vụ quản lý Tòa án địa phương được chuyển giao sang Tòa án nhân dân tối cao.
Tháng 5 và 6 năm 2005, Bộ Chính trị liên tiếp ban hành 2 nghị quyết quan trọng liên quan đến công tác tư pháp: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Các nghị quyết này đã tạo cơ sở chính trị, là định hướng và chiến lược xuyên suốt cho Bộ, ngành Tư pháp tham mưu với Quốc hội, Chính phủ, chính quyền các cấp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của đất nước đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đẩy mạnh cải cách tư pháp.
Ngày 13/3/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục được mở rộng với một số lĩnh vực công tác mới như bồi thường nhà nước, kiểm soát thủ tục hành chính, quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII, tại Kỳ họp thứ 6, đã thông qua Hiến pháp năm 2013. Trong quá trình tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng Hiến pháp mới này, Bộ, ngành Tư pháp đã huy động trí tuệ, tâm huyết của toàn ngành góp phần tích cực, có hiệu quả vào quá trình xây dựng Hiến pháp với những giá trị đặc trưng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quyền con người, quyền cơ bản của công dân, thúc đẩy toàn diện công cuộc đổi mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta.

Lãnh đạo Bộ Tư pháp qua các thời kỳ.
Ngày 24/8/2015, tại Hà Nội, ngành Tư pháp long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm ngày Truyền thống (28/8/1945 - 28/8/2015) và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến dự và có bài phát biểu quan trọng.
Theo đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Trải qua 70 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Tư pháp nước ta đã không ngừng lớn mạnh và phát triển về nhiều mặt; luôn nỗ lực, bền bỉ phấn đấu và góp phần quan trọng vào quá trình hình thành, củng cố, hoàn thiện những nền tảng chính trị - pháp lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ buổi đầu được khai sinh cùng Chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ cho đến những tháng năm gian lao của hai cuộc kháng chiến trường kỳ và đặc biệt là hơn 40 năm tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong từng giai đoạn cụ thể, do điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của đất nước, Ngành Tư pháp đã có những thay đổi về tổ chức, thu hẹp hoặc mở rộng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nhưng vẫn luôn đồng hành cùng cả nước trên những chặng đường đấu tranh kiên cường của Đảng ta, nhân dân ta, vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm ngày Truyền thống Ngành Tư pháp (28/8/1945 - 28/8/2015) và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Ngày 16/7/2016, tại Hà Nội, Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp) tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống THADS (19/7/1946 - 19/7/2016) và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã gắn Huân chương Lao động hạng Nhất lên lá cờ truyền thống của Tổng cục THADS, ghi nhận thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhấn mạnh, hoạt động THADS ngày càng có hiệu lực, hiệu quả, góp phần tích cực vào việc bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ nghiêm kỷ cương phép nước, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các tầng lớp nhân dân... Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước và cải cách tư pháp do Đảng ta lãnh đạo, hệ thống THADS đã có bước phát triển mạnh mẽ. Thể chế THADS ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền công dân, quyền con người của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những kết quả, thành tích to lớn của hệ thống THADS trong 70 năm qua đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 09/11/2018, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương tổ chức thành công “Lễ hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2018”. Đây là dấu mốc quan trọng trong chuỗi các hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật nhằm tổng kết, đánh giá kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm sau 5 năm triển khai Ngày Pháp luật.
Phát biểu tại Lễ hưởng ứng Ngày Pháp luật, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã ghi nhận, biểu dương những nỗ lực, đóng góp tích cực của ngành Tư pháp, của cấp ủy Đảng, các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp; đồng thời chỉ đạo định hướng tiếp tục lan tỏa tinh thần Ngày Pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long trao Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc tại Lễ hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam (9/11/2022).
Ngày 01/11/2020, tại Thủ đô Hà Nội, Bộ Tư pháp tổ chức Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ V.
Với chủ đề “Toàn ngành Tư pháp đoàn kết, kỷ cương, sáng tạo, tích cực thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao”, Đại hội không chỉ là dịp để Bộ, ngành Tư pháp đánh giá kết quả thực hiện các phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2015 - 2020, tuyên dương thành tích của tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, xác định phương hướng tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước của ngành Tư pháp giai đoạn 2021 - 2025; mà còn vinh dự, tự hào đón nhận “Huân chương Lao động” hạng Nhất (lần thứ hai) - là sự ghi nhận những cống hiến, đóng góp to lớn của ngành Tư pháp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc - do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước trao tặng.
Ngày 9/11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW (Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”).
Nghị quyết đề cập một cách toàn diện, đầy đủ các nội dung chính của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang và sẽ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện trong thời gian tới; tạo cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng cho công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật của ngành Tư pháp. Trong quá trình xây dựng Nghị quyết, Bộ, ngành Tư pháp đã tích cực, chủ động, tham gia trách nhiệm trong việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn các nội dung, lĩnh vực quan trọng liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các cơ quan Tư pháp và của Bộ, ngành; góp ý trực tiếp nhiều nội dung. Nhiều ý kiến của Bộ, ngành Tư pháp đã được nghiên cứu tiếp thu, thể hiện tại Nghị quyết.
Ngày 7/11/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, phương hướng đến hết nhiệm kỳ. (Ngày 18/11/2024, Văn phòng Trung ương có Thông báo số 108-TB/VPTW về kết luận của buổi làm việc).
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp ngày 7/11/2024. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN
Tại buổi làm việc, Tổng Bí thư chỉ rõ, để đáp ứng yêu cầu đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, nhất định công tác xây dựng pháp luật phải được nâng lên ở tầm cao mới. Để đạt được mục tiêu này, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra 5 nhóm nhiệm vụ cần được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Trong đó có yêu cầu đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng pháp luật.
Ngày 26/02/2025, cùng với công cuộc sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy, Chính phủ ban hành Nghị định số 39/2025/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.
Theo đó, Chính phủ quy định cho Bộ Tư pháp 22 nhóm nhiệm vụ để thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo lĩnh vực ngành. Về cơ cấu tổ chức, nhằm thực hiện chủ trương tinh gọn bộ máy, Nghị định quy định Bộ Tư pháp có 20 đầu mối (giảm 5 đầu mối); trong đó có 16 tổ chức hành chính giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và 4 đơn vị sự nghiệp công lập, phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Bộ.

Sáng 18/5/2025, tại Nhà Quốc hội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Ngày 30/4/2025, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - một trong bốn Nghị quyết được coi là "Bộ tứ chiến lược" để đưa đất nước vươn mình, cất cánh trong kỷ nguyên mới. Ngày 17/5/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 197/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 140/NQ-CP Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị.
Ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Quyết định số 288-QĐ/TW về thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật do đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng Ban, Bộ trưởng Bộ Tư pháp là Ủy viên thường trực Ban Chỉ đạo. Ngày 4/6/2025, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quyết định số 297-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật.
Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định rõ: Đổi mới căn bản công tác xây dựng và thi hành pháp luật là nội dung cốt lõi, nền tảng cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết 66 là lời hiệu triệu cho một cuộc cải cách thể chế sâu sắc, nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại, thực chất, vì nhân dân phục vụ, đồng thời tạo ra động lực bền vững cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh trong thế kỷ XXI.
Nghị quyết số 66-NQ/TW là dấu mốc rất quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của Bộ, ngành Tư pháp. Những yêu cầu và nhiệm vụ mà Nghị quyết đặt ra vừa cho thấy vai trò, đồng thời là trách nhiệm của Bộ, Ngành Tư pháp trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những "điểm nghẽn của điểm nghẽn" để đất nước phát triển bứt phá, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển hùng cường.
(*) Bài viết có sử dụng tư liệu từ Biên niên sử ngành Tư pháp; tư liệu của Phòng truyền thống Bộ Tư pháp tại địa chỉ phongtruyenthong.moj.gov.vn.
PLVN