Bối cảnh hiện nay cần đặt ra vấn đề tiếp tục trao đổi nghiên cứu học thuật về đổi mới tư duy xây dựng và thực hiện pháp luật vận dụng quan điểm và tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong Kỷ nguyên vươn mình của Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Ngày 3/1/2025, Bộ Chính trị đã cho ý kiến đối với Đề án đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả do Đảng đoàn Quốc hội trình. Ngày 6/1/2025, Văn phòng Trung ương Đảng có Công văn số 12918-CV/VPTW về việc đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Ngày 20/1/2025, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 119-KL/TW về định hướng đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, trong đó nêu rõ 7 nội dung cần được thể chế hóa trong quá trình xây dựng Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi). Do đó, cần đặt ra vấn đề tiếp tục trao đổi nghiên cứu học thuật về đổi mới tư duy xây dựng và thực hiện pháp luật vận dụng quan điểm và tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong Kỷ nguyên vươn mình của Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Theo nội dung trao đổi của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tại buổi gặp mặt học viên Lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ 3) tổ chức ngày 31/10/2024 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại” (1). Như vậy, quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm quan niệm về “kỷ nguyên” được hiểu là một giai đoạn đặc thù trong lịch sử nhân loại, được phân định bởi các dấu mốc, sự kiện hoặc thay đổi lớn mang tính bước ngoặt về chính trị, khoa học, môi trường hoặc văn hóa - xã hội. Việc xác lập một kỷ nguyên cụ thể thường đi liền với những chuyển biến sâu sắc trong đời sống cộng đồng hoặc sự định hình mới về cách tổ chức xã hội. Đây là kỷ nguyên phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hướng đến sánh vai với các cường quốc năm châu vào giữa thế kỷ XXI.
Theo đó, “Kỷ nguyên vươn mình” được xác định là hành trình hành động đầy bản lĩnh, ý chí, quyết tâm và trách nhiệm, nhằm vượt qua các thách thức nội tại và ngoại biên, khai mở tiềm năng, biến khát vọng trở thành hiện thực, và từng bước hiện thực hóa mục tiêu dân tộc hùng cường, phồn vinh. Chính vì vậy, sự trỗi dậy, “Kỷ nguyên vươn mình” của Việt Nam đòi hỏi thể chế pháp luật thích ứng và kiến tạo. Do đó, cần có những trao đổi và nghiên cứu sâu sắc về nội dung về việc vận dụng việc đổi mới tư duy xây dựng và thực hiện pháp luật trở thành “chìa khóa” tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn” để phát triển vươn mình của dân tộc, bắt kịp và dẫn dắt quá trình đó. Bởi thế, việc đổi mới tư duy xây dựng và thực hiện pháp luật trong Kỷ nguyên mới cần được đặt trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, với trọng tâm là dân chủ, pháp quyền, nhân văn và phát triển.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
(i) Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền đặt nền tảng cho quan niệm hiện đại về quản lý xã hội bằng pháp luật ở Việt Nam. Ngay từ bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” (1919), Người đã khẳng định yêu cầu thiết lập một nhà nước hợp hiến, với pháp luật giữ vai trò tối thượng: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (2). Tư tưởng đó được Người tiếp tục phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Hiến pháp, pháp luật trong việc bảo vệ dân chủ, quyền con người, quyền công dân: “Dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật, sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp luật” (3). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân” (4). Do vậy, ngay trong Điều 1 Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (5).
Không chỉ dừng ở nội dung, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh yêu cầu dân chủ trong quá trình xây dựng pháp luật. Theo Người, Hiến pháp, pháp luật muốn phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của Nhân dân thì phải “trưng cầu ý kiến của Nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi” (6). Người cũng yêu cầu chống lối làm việc chủ quan, mệnh lệnh, coi trọng điều tra, nghiên cứu thực tiễn và sự tham gia của quần chúng vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật (7); các yếu tố pháp luật, kỷ luật, kỷ cương luôn đi liền với yêu cầu về đạo đức, trước hết là đạo đức tận tụy phục vụ Nhân dân. “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” (8) và “Đảng ta là một đảng cầm quyền”; “trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, “Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” (9).
Những quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ tư duy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân như: lấy dân làm gốc, Nhân dân là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà nước; tất cả vì con người, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân; quản lý nhà nước, quản lý xã hội dựa trên pháp luật và thực hiện pháp luật công bằng với nền hành chính và tư pháp liêm chính, đạo đức, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân (10). Việc tiếp tục kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc để giải quyết “điểm ngẽn”của thể chế cần nhấn mạnh tư duy xây dựng pháp luật phải lấy thực tiễn đời sống làm cơ sở, đặt lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và doanh nghiệp vào trung tâm trong quá trình hoạch định chính sách, pháp luật.
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng pháp luật phải có luận cứ chặt chẽ, cụ thể. Ngày 21/4/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã chủ trì buổi làm việc với một số đơn vị về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật. Bộ trưởng yêu cầu về định hướng chính sách…, tư duy xây dựng chính sách phải mạnh mẽ hơn, khả thi hơn, phản ánh được tinh thần đổi mới trong công tác hoàn thiện thể chế. (Nguồn: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo.aspx?ItemID=6946, truy cập lúc 18h ngày 23/4/2025) |
Tư duy đó gắn chặt với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nơi pháp luật không chỉ là công cụ quản lý mà còn là phương tiện để bảo đảm công lý, thúc đẩy công bằng và phát triển bền vững. Sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng “vì dân” của Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh thực tiễn, khách quan, linh hoạt trong xây dựng pháp luật hiện nay tạo nền tảng cho một nền pháp luật nhân văn, hiện đại, liêm chính, lấy đạo đức công vụ và tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân làm trọng tâm. Đây chính là biểu hiện sinh động của tư duy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
(ii) Quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Tiếp thu, phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành và hoàn thiện quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Cột mốc quan trọng là tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), Đảng lần đầu tiên chính thức khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam: “quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (11). Quan điểm này được kế thừa và cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), với quy định tại Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và tiếp tục được tái khẳng định tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
Gần đây nhất, khái niệm Nhà nước pháp quyền tiếp tục được ghi nhận trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và cụ thể hóa rõ nét trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW), đó là: Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thực hiện nguyên tắc pháp quyền, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Theo đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW đã chỉ rõ 08 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế (12).
Tiếp tục trên cơ sở đó, ngày 3/1/2025, Bộ Chính trị đã cho ý kiến đối với Đề án đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả do Đảng đoàn Quốc hội trình. Ngày 6/1/2025, Văn phòng Trung ương Đảng có Công văn số 12918-CV/VPTW về việc đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Ngày 20/1/2025, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 119-KL/TW về định hướng đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, trong đó nêu rõ 7 nội dung cần được thể chế hóa trong quá trình xây dựng Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi). Các yêu cầu trên đều thể hiện quan điểm tư duy xây dựng pháp luật theo quan điểm “xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo… lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm trung tâm” (Nhiệm vụ, giải pháp 3, Nghị quyết 27-NQ/TW). Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm nhất quán của Đảng đã đặt nền móng lý luận và chính trị cho việc đổi mới tư duy xây dựng pháp luật. Từ mô hình Nhà nước pháp quyền mang bản sắc Việt Nam, Đảng xác định rõ pháp luật không chỉ là công cụ cai trị mà là phương tiện phục vụ Nhân dân, thúc đẩy dân chủ, bảo đảm công lý, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Đây cũng là cơ sở căn bản để định hướng việc kiến tạo hệ thống pháp luật phù hợp trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
3. Đổi mới tư duy xây dựng và thực hiện pháp luật từ tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Kỷ nguyên vươn mình của Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Thứ nhất, đổi mới quan niệm mới về nguồn luật, vai trò của thực tiễn và xã hội: Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cần đổi mới cách tiếp cận nguồn luật. Ngoài các VBQPPL, cần thừa nhận và khai thác giá trị từ án lệ, tập quán pháp, nguyên tắc chung của pháp luật và các chuẩn mực xã hội, nghề nghiệp. Thực tiễn đời sống phải được coi là nguồn sống động của pháp luật, và tiếng nói của xã hội phải được lắng nghe, phản ánh đầy đủ vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật. Pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn, điều chỉnh thực tiễn và thúc đẩy thực tiễn phát triển.
Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh: Cần đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật, coi đây là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển. Trong Kỷ nguyên mới, pháp luật phải thật sự là nền tảng của phát triển, phục vụ phát triển và thúc đẩy phát triển; “lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể”. Công tác xây dựng pháp luật phải áp dụng cách tiếp cận thực tế và thực tiễn; bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, giải đáp các vướng mắc của cuộc sống và tìm ra con đường phát triển từ thực tiễn. (Nguồn: Nguyễn Hải Ninh, 2025, Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh: Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, coi đây là “đột phá của đột phá”, truy cập tại https://baochinhphu.vn/bo-truong-nguyen-hai-ninh-doi-moi-tu-duy-xay-dung-phap-luat-coi-day-la-dot-pha-cua-dot-pha-102241109094704396.htm) |
Thứ hai, tăng cường áp dụng đồng thời hai nguyên tắc: "đưa cuộc sống vào luật" và "đưa luật vào cuộc sống". Công tác lập pháp phải gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, kịp thời thể chế hóa những yêu cầu của cuộc sống ("đưa cuộc sống vào luật"), đồng thời bảo đảm luật pháp được thực thi hiệu quả, có cơ chế kiểm tra, giám sát, truyền thông, phổ biến, hỗ trợ pháp lý, trợ giúp pháp lý rộng rãi ("đưa luật vào cuộc sống"). Cả hai nguyên tắc cần được thực hiện đồng bộ, liên tục, từ khâu xây dựng, ban hành đến khâu tổ chức thi hành pháp luật.
Thứ ba, tăng cường dân chủ hóa quy trình lập pháp: tham vấn, phản biện, minh bạch. Quy trình xây dựng pháp luật phải bảo đảm sự tham gia thực chất, rộng rãi của các tầng lớp xã hội, doanh nghiệp, chuyên gia, người dân thông qua tham vấn, phản biện chính sách, công khai dự thảo luật. Cần coi việc phản biện xã hội không chỉ là hình thức mà phải trở thành một phần không thể thiếu nhằm nâng cao chất lượng, tính khả thi và tính đồng thuận xã hội của các đạo luật.
Thứ tư, chuyên nghiệp hóa nguồn nhân lực lập pháp - kiến tạo nền tảng pháp lý đổi mới. Đội ngũ cán bộ làm công tác lập pháp cần được chuyên nghiệp hóa, có trình độ chuyên môn cao về pháp luật, chính sách công, có tư duy đổi mới sáng tạo và gắn bó mật thiết với thực tiễn đời sống. Phải đầu tư trọng điểm cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lập pháp; tuyển dụng, trọng dụng các chuyên gia giỏi trong nước và quốc tế; có chế độ ưu đãi đặc thù để thu hút nhân tài phục vụ công tác lập pháp.
Thứ năm, tăng tính thích ứng, định hướng phát triển, giảm chi phí tuân thủ luật pháp. Hệ thống pháp luật phải bảo đảm khả năng thích ứng nhanh với thay đổi kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ. Pháp luật không chỉ mang tính điều chỉnh mà còn mang tính dẫn dắt, mở đường cho đổi mới sáng tạo và phát triển. Đồng thời, cần cải cách mạnh mẽ để giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho người dân và doanh nghiệp, xây dựng môi trường pháp lý minh bạch, thông thoáng, thuận lợi cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Thứ sáu, gắn lập pháp với chiến lược phát triển Nhà nước pháp quyền đến 2030, định hướng 2045. Công tác lập pháp cần bám sát và phục vụ chiến lược phát triển Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Lập pháp phải đảm bảo mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật hiện đại, dân chủ, công bằng, khả thi, đồng thời bảo vệ vững chắc quyền con người, quyền công dân, bảo đảm thượng tôn pháp luật, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia và tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
4. Kết luận
Bước vào Kỷ nguyên phát triển mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa khát vọng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực Nhân dân và quản lý xã hội bằng pháp luật tiếp tục soi đường cho công cuộc đổi mới toàn diện hiện nay. Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh vai trò then chốt của cán bộ trong việc dẫn dắt tiến trình này. Đội ngũ cán bộ cần không ngừng nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy pháp lý và khả năng hành động thực tiễn. Đổi mới tư duy, hành động quyết liệt, và đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Kết tinh từ nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ, cùng tinh thần đổi mới mạnh mẽ, Việt Nam đang vững bước trên con đường phát triển nhanh, bền vững, chủ động hội nhập sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa./.
TS. Trần Văn Duy
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
Chú thích
(1). GS.TS. Tô Lâm, 2025, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Nội dung trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ 3), Hà Nội.
(2). Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 7
(3). Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 293.299
(4). Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 453, 510.511
(5). NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Hà Nội, tr. 8
(6). Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 453, 510–511
(7). Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 13, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 71
(8). Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 65
(9). Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 168
(10). Chu Mai Phong, 2023, "Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền," Truy cập tại https://www,tuyengiaokontum,org,vn/ly-luan-chinh-tri/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-phap-quyen-5256,html, truy cập lúc 17h ngày 20/3/2025.
(11). Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb, Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 55
(12). Xem chi tiết: Nguyễn Hải Anh (2023), Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW, truy cập tại https://danchuphapluat,vn/dc-trung-cua-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-theo-tinh-than-nghi-quyet-so-27-nq-tw, truy cập lúc 22h ngày 18/4/2024.
Danh mục tài liệu tham khảo
2. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 453, 510,511
3. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 453, 510–511
4. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 13, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 71
5. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 168
6. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 7
7. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 65
8. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 293.299
11. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Hà Nội, tr. 8
12. Tô Lâm, 2025, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Nội dung trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ 3), Hà Nội
13. Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb, Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 55