Để hệ thống pháp luật đồng hành và “dẫn dắt” sự phát triển bền vững của đất nước

22/11/2025
Để hệ thống pháp luật đồng hành và “dẫn dắt” sự phát triển bền vững của đất nước
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tú cho rằng, hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật với việc thiết lập một chỉnh thể hài hòa giữa cấu trúc nội dung, cấu trúc hình thức được thiết kế, vận hành thông suốt, nhất quán theo các nguyên tắc pháp quyền là cơ sở để hệ thống pháp luật thực sự trở thành nền tảng pháp lý vừa ổn định, thống nhất với tính thượng tôn Hiến pháp; vừa linh hoạt, thích ứng với thực tiễn, củng cố niềm tin và an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia; đồng hành và “dẫn dắt” sự phát triển bền vững của đất nước.
Đổi mới tư duy về cách tổ chức hệ thống pháp luật

Sáng 22/11, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Diễn đàn xây dựng pháp luật lần thứ nhất với chủ đề “Hoàn thiện thể chế, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”. 

Tham luận tại Diễn đàn, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tú cho biết, trên cơ sở Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, từ tháng 8 năm 2025 đến nay, Bộ Tư pháp đã và đang phối hợp với các cơ quan của Quốc hội; các bộ, ngành, chuyên gia, người làm thực tiễn nghiên cứu, xây dựng Đề án “Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” để có thể trình Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật vào tháng 12/2025.

Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy có 3 vấn đề đặt ra. Thứ nhất, hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật không chỉ đơn thuần là sắp xếp lại các văn bản pháp luật hiện có mà còn bao gồm quá trình đổi mới tư duy về cách tổ chức hệ thống pháp luật như một chỉnh thể thống nhất, gồm nhiều thành tố luôn vận động, phát triển.

“Cấu trúc hệ thống pháp luật là bản thiết kế tổ chức, vận hành các thành tố của chỉnh thể đó; còn hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật phải hướng tới đề xuất khung cấu trúc tổng thể, bao gồm cấu trúc nội dung, cấu trúc hình thức, cơ chế vận hành khoa học, hiện đại, hợp lý, bao phủ được những vấn đề mới, “phi truyền thống” phát sinh; góp phần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, minh bạch, công bằng, khả thi, kiến tạo”, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tú cho hay.

Thứ hai, cấu trúc hệ thống pháp luật trong kỷ nguyên mới phải là cấu trúc mở của một hệ sinh thái sáng tạo, luôn tiếp thu phản hồi từ thực tiễn và hoàn thiện liên tục, đảm bảo đồng bộ giữa các tầng đường lối, chiến lược của Đảng, tầng chính sách, pháp luật của Nhà nước và tầng vận hành chính sách, pháp luật của các chủ thể liên quan.

Thứ ba, các nguyên tắc thiết kế và vận hành cấu trúc hệ thống pháp luật phải phù hợp với mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; đồng thời tiệm cận các nguyên tắc phổ biến ở những quốc gia đã thành công trong việc sử dụng thể chế, pháp luật để thúc đẩy phát triển.

Các tiêu chí đánh giá cấu trúc hệ thống pháp luật gồm thống nhất nội tại; đồng bộ, bao quát, hiệu lực, khả thi; minh bạch, dễ tiếp cận; linh hoạt, thích ứng và kiến tạo phát triển vừa là công cụ để nhận diện những bất cập, hạn chế của cấu trúc hiện hành vừa là cơ sở đề xuất nghiên cứu về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới phù hợp với những quyết sách chiến lược của Đại hội XIV của Đảng.
 
Quang cảnh Diễn đàn.
 
“Bên cạnh đó, một sản phẩm quan trọng của Đề án là dự kiến Danh mục văn bản luật đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới trong giai đoạn 2026-2031 và những năm tiếp theo, là cơ sở tham khảo để xây dựng Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI”, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tú nhấn mạnh.

Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tú cũng cho hay, trong suốt 80 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm tới công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật và đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cũng còn 3 hạn chế, bất cập chính.

Cụ thể, về cấu trúc nội dung, độ bao phủ, sự cân đối và hài hòa giữa các lĩnh vực còn hạn chế, một số lĩnh vực còn thiếu, thậm chí chưa có luật điều chỉnh; trong một số trường hợp chưa phân định rõ phạm vi điều chỉnh của văn bản luật cùng thứ bậc; giữa văn bản luật với văn bản dưới luật dẫn đến sự chồng chéo, “bỏ trống”, giảm hiệu lực và tính khả thi của cả hệ thống.

Về cấu trúc hình thức, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) còn nhiều tầng nấc, một số chủ thể sử dụng nhiều loại văn bản để ban hành, số lượng văn bản dưới luật còn lớn; trong một số trường hợp, chưa xác định rõ thứ bậc hiệu lực (giá trị pháp lý) của các VBQPPL; việc thừa nhận vai trò và việc áp dụng các nguồn pháp luật bổ trợ như án lệ, tập quán… còn hạn chế; mối quan hệ hiệu lực giữa các nguồn pháp luật có khía cạnh còn chưa rõ.

Về cơ chế vận hành, kỹ thuật và giá trị hiệu lực hợp nhất, pháp điển văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế; cơ chế theo dõi, đánh giá thi hành pháp luật chưa hiệu quả; quy định về đánh giá tác động sau khi ban hành chưa đầy đủ; kỹ thuật lập pháp trong một số trường hợp chưa thống nhất; hạ tầng công nghệ, dữ liệu chưa được đầu tư đúng mức…

Xây dựng cấu trúc hệ thống pháp luật bao quát đầy đủ, cân đối, hài hòa

Từ những nội dung trên, nghiên cứu bước đầu dự kiến đề xuất 5 định hướng và 5 giải pháp chính để hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật

Trong đó, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tú cho biết, dự kiến 5 định hướng hoàn thiện bao gồm xây dựng cấu trúc hệ thống pháp luật bao quát đầy đủ, cân đối, hài hòa một cách hợp lý giữa các lĩnh vực, qua đó bảo đảm sự đồng bộ giữa tư duy phân định lĩnh vực thể chế phát triển của Đảng trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc XIV với tư duy phân định nhóm lĩnh vực pháp luật trong hệ thống pháp luật.

Thứ 2, thúc đẩy hình thành lĩnh vực pháp luật mới bên cạnh các lĩnh vực pháp luật hiện có để đáp ứng yêu cầu kiến tạo, dẫn dắt của pháp luật trước những phát triển mới của khoa học, công nghệ và các vấn đề mới khác của đời sống kinh tế - xã hội.

Thứ 3, lấy Hiến pháp và một số bộ luật, luật có tính chất nền tảng, rường cột làm trung tâm của cả hệ thống pháp luật, các luật khác được thiết kế theo chức năng phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với Hiến pháp và các văn bản luật nền tảng, rường cột. Đồng thời, bổ sung nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành khi có quy định khác nhưng không trái với nguyên tắc cơ bản của luật chung, đồng thời kiểm soát, loại bỏ sự trùng lặp về nội dung giữa luật chung và luật chuyên ngành.

Thứ 4, nghiên cứu giảm bớt tầng nấc của hệ thống VBQPPL; thu hẹp loại VBQPPL mà một cơ quan có thẩm quyền ban hành, theo hướng mỗi cơ quan chỉ ban hành một loại VBQPPL…

Định hướng thứ 5 là tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật lập pháp, hợp nhất và pháp điển, các công cụ và phương pháp theo dõi, đánh giá thi hành pháp luật sau ban hành; hiện đại hóa hạ tầng, ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, đảm bảo tính liên thông, phản hồi và phản ứng chính sách, pháp luật linh hoạt, kịp thời.

Nêu 5 giải pháp chính, Thứ trưởng nhấn mạnh việc đổi mới và vận dụng hợp lý tư duy phân loại luật công/luật tư; luật chung/luật chuyên ngành ngay trong khi thiết kế các quy phạm pháp luật thuộc từng lĩnh vực pháp luật, từng VBQPPL cụ thể, đảm bảo sự phù hợp, thống nhất với các nguyên tắc chung thiết kế và vận hành cấu trúc hệ thống pháp luật.

Thứ 2, tổng rà soát hệ thống pháp luật hiện hành, xác định lại vị trí và chức năng của từng văn bản luật, theo các nguyên tắc phân tầng hiệu lực, phân lớp chức năng trong mỗi lĩnh vực pháp luật. Qua đó, bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp, các văn bản luật trụ cột, luật chung giữ vai trò định hướng nguyên tắc, có tính ổn định cao; kịp thời đề xuất cắt giảm, loại bỏ, các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lặp, các quy định không còn phù hợp với thực tiễn.

Đồng thời, xác định rõ nhu cầu và điều kiện ban hành các văn bản luật mới, nhất là các luật quy định các biện pháp, cơ chế đặc thù, vượt trội, khuyến khích phát triển các lĩnh vực, địa bàn, nhóm đối tượng, “luật thử nghiệm có kiểm soát”… phù hợp với vai trò kiến tạo phát triển, quản trị quốc gia hiện đại của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Ưu tiên đưa vào chương trình lập pháp năm 2026 những văn bản luật bảo đảm cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp.

Giải pháp thứ 3 là rà soát, giảm bớt hình thức VBQPPL theo hướng mỗi cơ quan ban hành một loại văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp với việc phân quyền, phân cấp trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương. Chuẩn hóa và minh bạch việc thừa nhận giá trị áp dụng của các nguồn pháp luật bổ trợ, như tập quán trong nước và tập quán quốc tế, án lệ, lẽ công bằng, thậm chí cả “luật mềm” phù hợp với Hiến pháp và pháp luật; đồng thời tiếp tục khẳng định nguyên tắc ưu tiên áp dụng VBQPPL so với các nguồn pháp luật bổ trợ.

Thứ 4, hoàn thiện cơ chế đẩy nhanh việc thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng thành pháp luật; làm rõ vai trò và trách nhiệm của các cơ quan liên quan đối với những vấn đề lập pháp có tính chất chiến lược quốc gia.

Hoàn thiện quy trình lập pháp, chuyên nghiệp hóa công tác soạn thảo luật, chú trọng nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu chính sách. Nghiên cứu, ban hành các bộ tài liệu hướng dẫn hoặc bộ quy chuẩn kỹ thuật lập pháp quốc gia để thống nhất sử dụng trong toàn quốc.

Đổi mới mạnh mẽ công tác hợp nhất VBQPPL, pháp điển QPPL theo hướng giúp các chủ thể dễ dàng tra cứu, áp dụng, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật.

Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạọ toàn diện từ khâu xây dựng cho đến khâu thi hành pháp luật; đánh giá văn bản luật sau ban hành phải trở thành nhiệm vụ bắt buộc đối với cơ quan được giao chủ trì soạn thảo và tổ chức thi hành; xây dựng và vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia “mở” về xây dựng và thi hành pháp luật, tiếp nhận và phản hồi kịp thời ý kiến của người dân, doanh nghiệp về chính sách, pháp luật và tổ chức thi hành trong suốt vòng đời pháp luật cũng là một giải pháp quan trọng.

“Tóm lại, hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật với việc thiết lập một chỉnh thể hài hòa giữa cấu trúc nội dung, cấu trúc hình thức được thiết kế, vận hành thông suốt, nhất quán theo các nguyên tắc pháp quyền là cơ sở để hệ thống pháp luật thực sự trở thành nền tảng pháp lý vừa ổn định, thống nhất với tính thượng tôn Hiến pháp; vừa linh hoạt, thích ứng với thực tiễn, củng cố niềm tin và an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia; đồng hành và “dẫn dắt” sự phát triển bền vững của đất nước”, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú nêu rõ.

Thứ trưởng khẳng định, việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới với các nội dung nêu trên có quan hệ chặt chẽ với việc xây dựng định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội khóa XVI.

Vì vậy, Bộ Tư pháp mong muốn tiếp tục nhận sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan của Quốc hội, của các Bộ, ngành, chuyên gia, người làm thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện Đề án.
 
Minh Khôi