Trong những ngày đầu tiên của năm 2008, PLVN đã có buổi trò chuyện với Vụ trưởng Vụ Pháp luật Quốc tế (Bộ Tư pháp) Hoàng Phước Hiệp để nghe ông tâm sự về những công việc của năm qua và những kỳ vọng cho một năm mới.
                            
                        
                  
                    
                        
                         PV: Thưa ông, Vụ PLQT đã đạt được thành tựu gì đáng kể để đóng góp cho quá trình  hoàn thiện pháp luật, phục vụ cho việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế  giới (WTO) và hội nhập quốc tế trong năm 2007?
 
 Ông Hoàng Phước Hiệp: Năm 2006 để phục  vụ cho việc Việt Nam gia nhập WTO, số lượng công việc của Vụ rất nhiều, đặc biệt  là xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến những cam kết của WTO. Những công việc  đó được chuyển sang năm 2007 với mức độ phức tạp hơn, nhất là việc hỗ trợ cho  các cơ quan Nhà nước (TƯ và địa phươmg) và các Hiệp hội, DN trong thực hiện các  cam kết của Việt Nam với WTO, cũng như yêu cầu của WTO đối với Việt Nam và cộng  đồng kinh doanh ở Việt Nam. Ngay từ cuối năm 2006, đầu năm 2007, với sự hỗ trợ  của các chuyên gia nước ngoài, Vụ đã tổ chức các lớp tập huấn 2 miền về những  cam kết mới đạt được của Việt Nam với WTO, được đánh giá là có kết quả tốt, tạo  ra cơ hội đầu tiên cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và đội ngũ luật sư tiếp cận  và hiểu hơn về các cam kết này, góp phần thực thi tốt hơn các nhiệm vụ trong  hoạt động tư pháp.
 
Tuy  nhiên, thành tựu lớn nhất mà Vụ PLQT đã đạt được trong năm qua là hoàn thành  việc xây dựng Luật Tương trợ Tư pháp đúng thời hạn. Luật này đã được Quốc hội  Khóa XII thông qua (tháng 11/2007) và sẽ có hiệu lực từ 01/07/2008. Đây là một  thành công đáng tự hào của Vụ vì Luật Tương trợ Tư pháp là một trong hai văn bản  của Bộ Tư pháp chuẩn bị được Quốc hội thông qua trong năm 2007, đồng thời là kết  quả làm việc, phối hợp của 5 cơ quan Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao,  TANDTC và VKSNDTC để thống nhất trong việc đưa ra những qui định điều chỉnh một  lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm trong quan hệ quốc tế nói chung và trong quan hệ  tư pháp quốc tế nói riêng. 
 
Năm  2007 là một năm có rất nhiều hoạt động liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung, ban  hành mới VBQPPL có liên quan đến các cam kết của Việt Nam với WTO. Số lượng các  ĐƯQT mà Vụ PLQT phải nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến thẩm định, góp ý cũng tăng lên  đáng kể. Bên cạnh đó, Vụ còn chủ trì và phối hợp với các đơn vị trong Bộ Tư pháp  và các Bộ, ngành có liên quan trực tiếp thực hiện và chỉ đạo các địa phương thực  hiện hoạt động rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của WTO để có kiến  nghị cần thiết đối với những VBQPPL chưa tương thích với các cam kết của Việt  Nam với WTO, nhằm sửa đổi, bổ sung và ban hành mới VBQPPL để thực thi các cam  kết này.
 
Vụ  cũng đã tham gia vào nhiều hoạt động của Nhà nước tại WTO, các tổ chức quốc tế  và khu vực như tham gia đàm phán các Hiệp định trong ASEAN và các hiệp định đối  tác kinh tế giữa ASEAN với các nước khác; tham gia đàm phán các Hiệp định song  phương về kinh tế, thương mại với Nhật Bản, Nga… Đặc biệt, Vụ đã đề cử và được  chấp nhận một cán bộ (đại diện của Bộ Tư pháp) làm thành viên phái đoàn của Việt  Nam tại WTO. Đây cũng là lần đầu tiên Bộ Tư pháp có đại diện tại phái đoàn của  Việt Nam ở tổ chức quốc tế mang tính toàn cầu. 
 
 Riêng đối với các DN, Vụ đã hỗ trợ họ trong đàm phán, ký kết các tài liệu dự án,  hợp đồng với các tổ chức, cơ quan nước ngoài, xử lý những vấn đề pháp lý phát  sinh, góp phần giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quan hệ pháp luật Việt  Nam và quốc tế, đóng góp phần mình vào xử lý các vụ việc tranh chấp quốc tế như  các vụ tranh chấp liên quan đến vụ tàu Cần Giờ ở Tanzania, ở Vietnam Airlines,  vụ gạo với Glenco…, hay hỗ trợ Hội Luật gia Việt Nam và Hội các nạn nhân bị  nhiễm chất độc da cam/dioxin Việt Nam trong chuẩn bị các tài liệu vụ kiện đòi  bồi thường cho các nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam/dioxin.  
 
 PV: Với những kết quả trên, dường như Vụ PLQT đã không gặp phải khó khăn gì  trong suốt năm 2007, thưa ông?
 
Ông Hoàng  Phước Hiệp: Thực sự năm qua, Vụ PLQT cũng đã có rất  nhiều thuận lợi, mà trước hết là sự ủng hộ chân thành của tập thể Lãnh đạo Bộ Tư  pháp, nhiều đồng chí Lãnh đạo cấp cao của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành  liên quan và tập thể CBCC, viên chức của Bộ Tư pháp và đặc biệt là sự đồng lòng  của tập thể công chức của Vụ Pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, nhìn vào số lượng  công việc và kết quả đã đạt được của Vụ năm 2007, không thể nói chúng tôi đã  không gặp khó khăn gì. Là một vụ mới thành lập (từ năm 2003) với số lượng CBCC  trẻ, nhiệt tình, có học vấn (chiếm 50% CBCC của Vụ) nhưng hạn chế là ở chỗ họ  còn thiếu kinh nghiệm, nên hầu như công việc đè nặng lên vai những CBCC đã “dạn  dày”kinh nghiệm công tác, vì thế, công việc thực sự quá tải đối với họ. Thêm vào  đó, với chế độ lương bổng hiện nay thì thực sự CBCC của Vụ đã phải vượt qua  nhiều thách thức để tiếp tục làm việc tại Bộ Tư pháp có hiệu quả. Có những thời  điểm họ phải làm việc cả ngày thứ bảy, chủ nhật, còn làm thêm ngoài giờ là  thường xuyên. Tất cả là vì công việc, vì nếu tính các chế độ phụ cấp thì thực sự  không bằng 1/5 thu nhập hợp pháp mà họ có thể kiếm được bên ngoài vào thời gian  đó. Điều đó cho thấy sự yêu nghề và trách nhiệm của đội ngũ CBCC đang làm việc  tại Vụ - một yếu tố giúp Vụ hoàn thành được khối lượng công việc khổng lồ trong  năm vừa qua.
 
Một khó khăn nữa là sự  bất cập trong kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế ngay ở các cơ quan Bộ, ngành  trung ương và địa phương. Mặc dù trong năm, Vụ đã phối hợp với Vụ Tổ chức Cán bộ  mở nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức cho CBCC ngay trong Bộ Tư pháp về vấn đề hội  nhập và WTO nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Do đó, khi xây dựng và  thẩm định các VBQPPL còn có chỗ thiếu sót. Ở địa phương, có chỗ cán bộ cơ quan  tư pháp không nắm vững các qui định của pháp luật quốc tế, nên khi lập hồ sơ ủy  thác tư pháp không đúng qui định, gẫy chậm trễ trong thực hiện công tác này.
 
PV: Những khó khăn  này không dễ khắc phục trong “ngày một, ngày hai”. Vậy, trong năm 2008, Vụ PLQT  dự định sẽ tiếp tục hoạt động như thế nào trước ảnh hưởng của những khó khăn đó,  thưa ông?
 
Ông Hoàng  Phước Hiệp: Cho dù khó khăn thì cũng phải hoàn thành  nhiệm vụ chính trị được giao, nhất là khi công việc của chúng tôi lại liên quan  trực tiếp đến các vấn đề về pháp luật quốc tế trong thời kỳ hội nhập. Do đó, một  trong những công tác trọng tâm của năm 2008 là tiến hành các hoạt động triển  khai để Luật Tương trợ Tư pháp đi vào cuộc sống bằng việc chủ trì, phối hợp với  các đơn vị trong và ngoài Bộ xây dựng các văn bản hướng dẫn để trình Chính phủ  ban hành; tổ chức các hoạt động tuyên truyền, hội thảo, tập huấn cho địa phương  về Luật này… 
 
Vụ cũng sẽ tham gia  soạn thảo Hiệp định Tương trợ Tư pháp với các nước ASEAN về dân sự, thương mại  và Hiệp định miễn thị thực và đơn giản hóa các thủ tục trong hoạt động tư pháp;  tham gia đàm phán với các nước ASEAN về các vấn đề cụ thể, các Hiệp định thương  mại với các nước ASEAN +; chủ trì, phối hợp với các đơn vị đàm phán, chuẩn bị ký  kết Hiệp định tương trợ Tư pháp với Angeri, Thỏa thuận với Đài Loan và các nước  khác. Ngoài ra, một số hoạt động khác vẫn phải làm thậm chí với tốc độ cao hơn,  trong đó tiếp tục rà soát các VBQPPL sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tháng 7/2007  đã có báo cáo giữa kỳ về kết quả đợt rà soát này và dự kiến đến tháng 6 năm nay,  chúng tôi sẽ hoàn thành báo cáo cuối cùng. Hy vọng, với những hoạt động trên,  trong năm 2008, Vụ PLQT sẽ tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ và đạt hiệu quả như  những gì đã làm được trong năm 2007.
 
PV: Xin cảm ơn ông!
 Hương Giang
                        | Tính đến 31/10/2007, Vụ      PLQT đã thẩm định và góp ý được 511 văn bản gồm góp ý 189 ĐƯQT, 177 VBQPPL;      thẩm định 82 ĐƯQT, 63 VBQPPL; cấp ý kiến pháp lý cho 27 khoản vay nước      ngoài; thẩm định và góp ý 50 đề án của các Bộ, ngành, địa phương liên quan      đến chiến lược phát triển; thực hiện được 1517 hồ sơ ủy thác gửi đi nước      ngoài, trả lại địa phương gần 500 hồ sơ do không đảm bảo yêu cầu. Tính trung      bình, trong năm 2007, mỗi tháng các Bộ, ngành, địa phương gửi về Vụ PLQT 47      VB đề nghị cho ý kiến góp ý, thẩm định, trong đó có nhiều ĐƯQT phải thẩm      định trên văn bản bằng tiếng nước ngoài. |