Sở Tư pháp Quảng Ngãi: nhìn lại hơn 1 năm thực hiện Nghị quyết 01-NQ/TU của Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cải cách hành chính

17/09/2007
Ngày 05/5/2006, Tỉnh uỷ ban hành Nghị quyết 01-NQ/TU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006-2010, vừa qua Sở Tư pháp đã tổ chức đánh giá những kết quả đạt được sau hơn 1 năm triển khai thực hiện, qua đó nêu lên những khó khăn, tồn tại để kịp thời khắc phụ trong thời gian đến.

Nhì chung, thời gian qua công tác cải cách hành chính luôn được lãnh đạo Sở Tư pháp quan tâm, thường xuyên tổ chức quán triệt kịp thời cho cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành các quy định liên quan đến công tác cải cách hành chính. Vì vậy, cán bộ, công chức, viên chức trong ngành Tư pháp nhận thức về cải cách hành chính là khá đầy đủ và toàn diện, tạo tiền đề thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải cách hành chính đối với ngành.

Trong công tác cải cách thể chế, việc thực hiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm phát luật được Sở Tư pháp tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện chặt chẽ, từ ngày 31/5/2006 đến nay Sở Tư pháp đã thẩm định tính pháp lý 136 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND tỉnh trên tất các các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội; tiến hành kiểm tra tổng số 34.627 văn bản các loại do HĐND và UBND ban hành tại 07 huyện là Đức Phổ, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Mộ Đức, Minh Long, Sơn Tây, Trà Bồng; thực hiện tự kiểm tra, rà soát văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh với tổng số 210 văn bản, qua đó tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh xử lý 16 văn bản có nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật hiện.

Việc thực thi các Quyết định của cơ quan hành chính cấp trên luôn được Sở Tư pháp thực hiện nghiêm túc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, giữ vững kỷ luật, kỷ cương  hành chính trong cơ quan. Công tác thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện và chỉ đạo toàn ngành thực hiện tương đối tốt. Từ ngày 31/5/2006 đến nay, Sở Tư pháp đã tiếp nhận 79 đơn khiếu nại, tố cáo, trong đó có 03 đơn không rõ nội dung yêu cầu, 02 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết đã được Giám đốc Sở giải quyết dứt điểm theo đúng quy định của pháp luật, không để tồn đọng; 39 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của các Cơ quan Thi hành án dân sự (chủ yếu là đơn yêu cầu về thi hành án) đã được Giám đốc Sở chỉ đạo các Cơ quan Thi hành án dân sự giải quyết. Đối với các đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Giám đốc Sở và Thủ trưởng Cơ quan Thi hành án, Giám đốc Sở chỉ đạo Thanh tra Sở hướng dẫn người khiếu nại gửi đơn đúng với quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Ngoài ra, Giám đốc Sở Tư pháp đã thành lập 03 Đoàn thanh tra tại UBND xã Nghĩa Hà huyện Tư Nghĩa về công tác quản lý đăng ký hộ tịch; tại UBND huyện Đức Phổ, UBND xã Phổ Thạnh, UBND thị trấn Đức Phổ huyện Đức Phổ về công tác chứng thực và quản lý đăng ký hộ tịch; kiểm tra chuyên ngành tại trung tâm dịch vụ Bán đấu giá tài sản tỉnh. Kết quả thanh tra đã kịp thời chấn chỉnh những sai sót về nghiệp vụ, kiến nghị xử lý những sai sót, vi phạm.

Việc thực hiện công khai minh bạch các khâu giải quyết công việc của Sở được Sở Tư pháp thường xuyên rà soát, hệ thống hoá các quy định về thủ tục, giấy tờ cần thiết và thời hạn giải quyết đối với từng loại công việc để kịp thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm tạo thuận lợi tối đa cho tổ chức và công dân. Theo đó, các thủ tục liên quan đến các lĩnh vực như công chứng, đăng ký hộ tịch, bán đấu giá tài sản, thi hành án dân sự được Sở Tư pháp chỉ đạo các bộ phận liên quan niên yết công khai tại trụ sở và trên Trang thông tin điện tử của Sở để cho nhân dân biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện. Nhìn chung, việc thực hiện cơ chế “một cửa” trên các lĩnh vực: hộ tịch, công chứng, trả lời đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức và công dân đang phát huy hiệu quả, tạo thuận lợi tối đa cho tổ chức và công dân có yêu cầu.

Trong việc cải cách tổ chức bộ máy, trên cơ sở Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 5/5/2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác Tư pháp ở địa phương, Sở Tư pháp tiến hành rà soát chức năng nhiệm vụ của ngành đồng thời tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 38/2006/QĐ-UBND ngày 19 tháng 7 năm 2006 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp để phù hợp với nhiệm vụ mới mà ngành đang đảm nhận. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ mới, các phòng chuyên môn, đơn vị trực thuộc của Sở được kiện toàn, từ 03 tổ chức giúp việc cho Giám đốc Sở trước kia được tăng lên 05 tổ chức với nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, đồng thời 04 đơn vị trực thuộc được luật hoá với 02 Luật, 01 Pháp lệnh và 01 Nghị định nên về tổ chức bộ máy được kiện toàn, đảm bảo triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao.

Trong việc xác định nguyên tắc làm việc, xây dựng quy chế phối hợp trong hoạt động của cơ quan, ngày 07/8/2006, Giám đốc Sở đã ban hành Quyết định số 85/QĐ-STP về việc ban hành Quy chế làm việc của Sở, đồng thời ban hành Quyết định số 08/QĐ-STP ngày 06/02/2007 ban hành Quy định về phân công nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức giúp việc cho Giám đốc Sở đã xác định rõ các nguyên tắc làm việc, cơ chế phối hợp cũng như tăng trách nhiệm và tính tự chủ của các phòng, đơn vị trực thuộc Sở và từng cán bộ, công chức, viên chức của Sở, phát huy cao tính dân chủ, tinh thần tập thể , tính kỷ luật và những sáng kiến đối với từng cá nhân nên công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Sở đối với các tổ chức giúp việc cho Giám đốc Sở, các đơn vị trực thuộc Sở cũng như sự phối hợp trong công tác giữa các tổ chức giúp việc cho Giám đốc Sở với các đơn vị trực thuộc Sở được thực hiện nhịp nhàng và đạt hiệu quả cao. Hoạt động phối hợp giữa lãnh đạo Sở với Chi uỷ, với Ban chấp hành Công đoàn Sở cũng được thể hiện tại Quy chế phối hợp số 01/QC-PH ngày 24/5/2007 giữa Chi uỷ và lãnh đạo Sở, Quyết định số 29/QĐ-STP ban hành Quy chế phối hợp giữa lãnh đạo Sở với Ban chấp hành Công đoàn Sở.

Trong công tác tổ chức cán bộ thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn là lĩnh vực được lãnh đạo Sở quan tâm hàng đầu. Trước hết Lãnh đạo Sở tiến hành rà soát đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện có, tiến hành sắp xếp, bố trí công tác phù hợp với năng lực, sở trường của từng người; thực hiện tốt công tác nhận xét, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm, công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại những cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực vào các chức danh Trưởng, Phó Trưởng phòng, Chấp hành viên Thi hành án dân sự. Công tác quy hoạch được chú trọng, đội ngũ cán bộ Lãnh đạo Sở và Trưởng, Phó phòng, đơn vị trực thuộc được quy hoạch đến năm 2010; theo đó công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước đáp ứng tiêu chuẩn hoá cán bộ, công chức, viên chức theo chức danh đảm nhiệm. Trong công tác tuyển dụng cán bộ được đổi mới từ khâu sơ xét tuyển những người đảm bảo về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức phẩm chất và năng lực thực tế để bố trí công tác phù hợp.

Trong việc sử dụng các nguồn lực về tài chính, để sử dụng các nguồn lực về tài chính có hiệu quả, cũng như thực hiện tốt  thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Sở Tư pháp đã ban hành Chương trình hành động số: 04/CTr-STP ngày 01 tháng 9 năm 2006 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của Sở, Chương trình hành động số: 05/CTr-STP ngày 01 tháng 9 năm 2006 về phòng chống tham nhũng và thực hiện nghiêm túc nội quy quản lý, sử dụng tài sản công và nếp sống văn minh trong công sở. Mặt khác, ngày 18/10/2006 Giám đốc Sở cũng đã ban hành Quyết định số 116/QĐ-STP về Quy chế chi tiêu nội bộ của Sở đã góp phần phát huy giá trị nguồn lực tài chính hiện có với mức cao nhất./.

Cao Nguyên