Thực tiễn thi hành một số quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong BLDS năm 2015

08/11/2018
Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017 với nhiều nội dung mới, tiệm cận với những nguyên lý chung của pháp luật dân sự, trong đó bao gồm các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (từ Điều 292 đến Điều 350). Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy vẫn còn một số vấn đề trong các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cần được các bên phân tích, đánh giá và lựa chọn cách thức xử lý nhằm giảm thiểu những rủi ro pháp lý có thể phát sinh.
1. Về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm và thứ tự ưu tiên thanh toán
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 có 02 phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm gồm: (1) Đăng ký biện pháp bảo đảm và (2) Nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm. Cụ thể là: “Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm” (Điều 297 Bộ luật Dân sự năm 2015)[1]. Như vậy, đăng ký biện pháp bảo đảm và hành vi nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm có giá trị pháp lý như nhau khi xác định thời điểm đối kháng với người thứ ba.
Tình huống 1: Công ty A thế chấp tài sản tại Ngân hàng B. Hợp đồng thế chấp được đăng ký ngày 01/02/2018. Tuy nhiên, ngày 15/01/2018, Công ty A đã cầm cố tài sản này cho ông C, tài sản do ông C trực tiếp nắm giữ, kiểm soát. Trong tình huống này, khi xét về hiệu lực đối kháng thì ông C có vị trí cao hơn Ngân hàng do thời điểm nắm giữ phát sinh trước thời điểm đăng ký biện pháp bảo đảm.
Qua theo dõi cho thấy,  ngoài mối quan hệ của 02 phương thức này, trên thực tế dường như không ít chủ thể vẫn hiểu chưa thống nhất về bản chất (các yếu tố bắt buộc) của cách thức “nắm giữ hoặc chiếm giữ” tài sản bảo đảm để phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba, cụ thể là: Khái niệm “nắm giữ” hoặc “chiếm giữ” chỉ cần mang tính pháp lý hay phải được thể hiện bằng hành vi thực tế? Việc “nắm giữ” hoặc “chiếm giữ” có yêu cầu gì? Về những vấn đề này, chúng tôi cho rằng hành vi “nắm giữ” hoặc “chiếm giữ” phải mang tính thực tế (Ví dụ: A chiếm giữ ô tô của B do các bên ký hợp đồng cầm cố ô tô) và việc “nắm giữ” hoặc “chiếm giữ” phải liên tục, công khai, hợp pháp. Chúng tôi cho rằng, đây cũng là vấn đề rất quan trọng mà các bên cần hiểu rõ trong quá trình lựa chọn phương thức “nắm giữ” hoặc “chiếm giữ” để đối kháng với người thứ ba.  
Tình huống 2: Công ty A sở hữu 1 chiếc ô tô và có nhu cầu mang xe đó đi bảo đảm cho 1 khoản vay tại Công ty B. Sau khi thỏa thuận, 02 bên quyết định ký kết hợp đồng cầm cố ô tô. Trong trường hợp này, Công ty B phải nắm giữ trực tiếp ô tô của Công ty A thì mới thỏa mãn quy định của BLDS năm 2015. 
Bên cạnh đó, mặc dù đã bổ sung “nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm” là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, nhưng thực tiễn giao kết hợp đồng của một số doanh nghiệp, đặc biệt là trong quan hệ với đối tác nước ngoài đã phát sinh những tình huống có thể áp dụng một số phương thức khác làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Những phương thức này mặc dù Bộ luật Dân sự Việt Nam không quy định, nhưng pháp luật giao dịch hiện đại của một số nước lại thừa nhận bên cạnh 02 phương thức giống như Việt Nam, ví dụ như: (i) Phương thức kiểm soát tài sản bảo đảm (đối với tài khoản tiền gửi, chứng khoán, thư tín dụng) và (ii) Phương thức tự động phát sinh hiệu lực đối kháng (quyền lợi bảo đảm của bên cấp tín dụng để mua tài sản bảo đảm là hàng tiêu dùng - PMSI). Khi gặp tình huống này, ngay tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên cần đặc biệt lưu ý đến quy định tại Phần thứ 5 của BLDS năm 2015 (Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài), tránh tình trạng khi phát sinh tranh chấp thì mới chú ý đến việc lựa chọn pháp luật để áp dụng.
2. Về vấn đề giao tài sản bảo đảm để xử lý
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 quy định về giao tài sản bảo đảm để xử lý, theo đó người đang giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này. Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”(Điều 301). Theo chúng tôi, xét ở góc độ hợp đồng, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm với thời gian nhanh nhất, ít tốn kém nhất và tuân thủ yếu tố khách quan, trung thực, thiện chí. Xét ở góc độ nghiên cứu thì xử lý tài sản bảo đảm là một trong những “trụ cột” của pháp luật về giao dịch bảo đảm[2]. Trong khi đó, để có thể thực hiện được các thỏa thuận hợp pháp về xử lý tài sản bảo đảm trên thực tế lại phụ thuộc nhiều vào thiện chí, tự nguyện của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản), từ giao tài sản bảo đảm để xử lý, xác định phương thức xử lý tài sản bảo đảm, giá bán tài sản bảo đảm đến thủ tục chuyển quyền sở hữu cho người mua, người trúng đấu giá tài sản bảo đảm... Hệ quả tất yếu của tình trạng nêu trên là việc xử lý tài sản bảo đảm và khả năng hiện thực hóa các thỏa thuận hợp pháp trở nên “bấp bênh”. Trước thực tế chủ sở hữu tài sản bảo đảm (bên nhận bảo đảm) không hợp tác, con đường tố tụng (khởi kiện tại Tòa án) để yêu cầu được xử lý được tài sản và thu hồi nợ trở thành lựa chọn gần như là tất yếu của bên nhận bảo đảm[3], mặc dù trong nhiều vụ việc cụ thể vẫn không chắc chắn xử lý được tài sản bảo đảm, ngay cả khi bản án của Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Xét ở góc độ kinh tế thì việc xử lý tài sản bảo đảm theo con đường tố tụng thông thường mất nhiều thời gian, thủ tục phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của bên nhận bảo đảm, làm phát sinh thêm chi phí xã hội, cũng như tạo “gánh nặng” cho chính nhà nước. Do vậy, quy định nêu trên có thể xem là một tiến bộ của pháp luật dân sự khi tiếp cận với lý thuyết vật quyền, cũng như phù hợp với bản chất chung của giao dịch dân sự và yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, thực tế giao kết hợp đồng bảo đảm thời gian qua cho thấy, ngay cả khi Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định trực tiếp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm thì vấn đề này vẫn không có nhiều chuyển biến trên thực tế khi bên bảo đảm luôn tìm cách “chây ỳ”, “trốn tránh” nghĩa vụ này.
Trước thực tế nêu trên, chúng tôi cho rằng Tòa án nhân dân tối cao phải có hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn khi giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến tài sản bảo đảm, hợp đồng bảo đảm nói chung, chứ không chỉ áp dụng riêng đối với các khoản nợ xấu như trong Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội khóa XIV về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng[4]. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có văn bản quy định chi tiết Bộ luật Dân sự năm 2015 nhằm hiện thực hóa các quyền lợi hợp pháp của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm, ví dụ như: (i) Quyền nhận chính tài sản bảo đảm, quyền bán tài sản bảo đảm và thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nếu vi phạm thỏa thuận đã được giao kết và (ii) Tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy việc bên nhận bảo đảm được quyền tiếp cận, kiểm soát trên thực tế tài sản bảo đảm để xử lý nhanh chóng, hợp pháp trên cơ sở nguyên lý “không vi phạm điều cầm, không trái đạo đức xã hội”.
Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm cho thấy, nếu tiếp tục duy trì cơ chế xử lý như hiện nay thì thời gian xử lý tài sản bảo đảm sẽ kéo dài, các thỏa thuận trong hợp đồng không được thực hiện thiện chí, trách nhiệm. Do vậy, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận hợp pháp của các bên trong hợp đồng, quy định bên nhận bảo đảm được quyền thu giữ tài sản bảo đảm chính là nhằm khắc phục bất cập nêu trên, đồng thời cũng là giải pháp phù hợp với nguyên lý trong giao dịch bảo đảm hiện đại (quyền của chủ nợ có bảo đảm). Dĩ nhiên, trên cơ sở các quy định chung nhất của Bộ luật Dân sự, các văn bản dưới luật cần quy định cụ thể về điều kiện, trình tự phải đáp ứng trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm để loại bỏ nguy cơ phát sinh hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
3. Về biện pháp bảo lãnh
Điều 335 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”.
Về cơ bản, quy định nêu trên không khác so với Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 với các đặc điểm cơ bản của bảo lãnh là: (i) Quan hệ bảo lãnh xét cho cùng là quan hệ giữa bên bảo lãnh và người cho vay (bên nhận bảo lãnh). Điều này có nghĩa, hợp đồng bảo lãnh chỉ phát sinh trên cơ sở có sự chấp thuận ý chí giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh; (ii) Đối tượng của quan hệ bảo lãnh là cam kết về việc bên bảo lãnh thực hiện “nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ” (có thể là toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ). Đặc điểm này hoàn toàn khác với biện pháp cầm cố hoặc thế chấp, vì nếu xác lập biện pháp cầm cố hoặc thế chấp thì phải xác định được tài sản cụ thể dùng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ; trong trường hợp nghĩa vụ bảo đảm không được thực hiện thì bên nhận cầm cố (bên nhận thế chấp) được quyền xử lý tài sản theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để thu hồi nợ; (iii) Bên bảo lãnh là người vay “dự phòng”, điều này có nghĩa là nghĩa vụ bảo lãnh chỉ phát sinh khi “bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Trong trường hợp áp dụng biện pháp bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trước, sau đó nếu bên được bảo lãnh không thực hiện (hoặc thực hiện không đúng) thì mới yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
Thực tiễn cho thấy, một trong những vấn đề vẫn còn có ý kiến khác nhau đó là có hay không việc tồn tại khái niệm hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác? Đây là quan hệ thế chấp thuần túy hay là quan hệ bảo lãnh[5]? Vấn đề này tiếp tục có 02 loại quan điểm khác nhau ngay cả khi Bộ luật dân sự năm 2015 đã có hiệu lực. Có ý kiến vẫn bảo lưu quan điểm là các bên phải ký kết hợp đồng bảo lãnh, chứ không phải hợp đồng thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba. Việc các bên ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba là không đúng với tính chất của giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh. Trong khi đó, loại ý kiến thứ hai cho rằng, theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)” nên chủ sở hữu tài sản có thể dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của chính mình (bên thế chấp đồng thời là bên có nghĩa vụ) hoặc bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên có nghĩa vụ là 02 chủ thể khác nhau). Mặt khác, Điều 335 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Điều này càng phù hợp vì Luật Đất đai năm 2013 không tồn tại khái niệm “bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất”. Chúng tôi đồng tình với loại quan điểm thứ 2 vì ngoài những lập luận như trên thì thỏa thuận này phù hợp với thực tiễn giao kết hợp đồng hiện nay, đồng thời tối đa hóa được giá trị kinh tế của tài sản bảo đảm, trong khi Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng không có quy định cấm (hoặc hạn chế) việc thực hiện giao dịch này.
Ngoài ra, qua rà soát một số hợp đồng bảo lãnh, chúng tôi nhận thấy có sự không thống nhất trong cách tiếp cận vấn đề. Cụ thể là tại một số mẫu hợp đồng bảo lãnh vẫn còn tồn tại điều khoản về xử lý tài sản của bên bảo lãnh. Cách tiếp cận như vậy không phù hợp với các đặc điểm của bảo lãnh đã được phân tích ở trên, cũng như ngay chính trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không quy định về xử lý tài sản của bên bảo lãnh như Điều 369 Bộ luật Dân sự năm 2005, mà thay vào đó là quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh (Điều 342). Chính vì vậy, việc rà soát hợp đồng để bảo đảm thống nhất với cách tiếp cận của chê định bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là rất cần thiết nhằm hiện thực hóa đầy đủ, chính xác bản chất pháp lý của biện pháp bảo đảm đối nhân (nghĩa là không bảo đảm bằng tài sản cụ thể) trong quan hệ bảo lãnh.
Một trong những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự năm 2005 là đã bổ sung quy định về việc có thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (khoản 3 Điều 336 BLDS năm 2015)[6]. Tuy nhiên, để thống nhất cách hiểu và áp dụng quy định nêu trên trong thực tiễn thì cần quy định cụ thể hơn một số vấn đề liên quan trực tiếp đến quy định này như: Hình thức hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ này khác gì với quan hệ cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ của người khác? Cách thức xử lý tài sản bảo đảm được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh? Phạm vi trách nhiệm của bên bảo lãnh trong trường hợp này khác gì với các trường hợp thông thường khác…
4. Về biện pháp cầm giữ tài sản
Cũng như bảo lưu quyền sở hữu, biện pháp cầm giữ tài sản nếu nhìn ở góc độ biện pháp bảo đảm thì đây là biện pháp mới, lần đầu tiên được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015[7]. Chính vì vậy, một số tổ chức, cá nhân chưa thực sự hiểu rõ bản chất của biện pháp cầm giữ tài sản, dẫn đến lúng túng khi áp dụng các quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2015. Với số lượng 05 điều (từ Điều 346 đến Điều 350), khi áp dụng các tổ chức, cá nhân cần đặc biệt lưu ý một số nội dung sau đây:
- Về khái niệm, Điều 346 quy định cầm giữ tài sản là việc bên có quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy, cầm giữ có các đặc điểm là: (i) Biện pháp bảo đảm bằng tài sản được xác lập không dựa trên yếu tố thỏa thuận (nghĩa là không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ); (ii) Tài sản trong quan hệ cầm giữ là đối tượng của hợp đồng song vụ, có thể là động sản hoặc bất động sản; (iii) Bên có quyền trong quan hệ cầm giữ đang nắm giữ hợp pháp tài sản (có yếu tố năm giữ thực tế tài sản) và (iv) Phát sinh trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. 
Ví dụ: A mang ô tô vào gara của B để sửa chữa ô tô. Do A không thanh toán tiền công sửa chưa xe nên B đương nhiên có quyền áp dụng biện pháp cầm giữ xe ô tô của A cho đến khi nghĩa vụ đó được thanh toán đầy đủ.
- Về xác lập cầm giữ tài sản, Điều 347 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cầm giữ tài sản phát sinh từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”“Cầm giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản”.
Thời điểm phát sinh quyền cầm giữ và thời điểm đối kháng với người thứ của biện pháp cầm giữ là trùng nhau, vì suy cho cùng đều bắt đầu từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Việc không đăng ký biện pháp bảo đảm không ảnh hưởng đến hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm giữ tài sản.
Ví dụ: Tiếp theo ví dụ trên, ngay khi A không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền công sửa chữa ô tô cho B thì quyền cầm giữ của B phát sinh. Đây cũng chính là thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm giữ (thời điểm chiếm giữ tài sản).
- Quyền, nghĩa vụ của bên cầm giữ được quy định tại Điều 348 và Điều 349 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong đó lưu ý quyền “yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song vụ” và nghĩa vụ“không được chuyển giao, sử dụng tài sản cầm giữ nếu không có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ”. Quy định nêu trên cho thấy, bên có quyền cầm giữ không được bán, trao đổi… tài sản cầm giữ nếu không có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ để bù trừ vào nghĩa vụ chưa được thực hiện. Điều này hoàn toàn khác với bên nhận cầm cố tài sản, bên nhận thế chấp tài sản được quyền xử lý tài sản (bán, nhận chính tài sản) để thanh toán nghĩa vụ đã đến hạn.
- Điều 350 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định 05 trường hợp dẫn đến chấm dứt cầm giữ tài sản, trong đó cần lưu ý trường hợp “bên cầm giữ không còn chiếm giữ tài sản trên thực tế”. Như vậy, việc chiếm giữ tài sản phải được thực hiện liên tục. Nếu vì bất kỳ lý gì mà dẫn đến việc bên có quyền không còn chiếm giữ tài sản trên thực tế nữa thì cầm giữ tài sản sẽ bị chấm dứt và điều đó cũng đồng nghĩa chấm dứt hiệu lực đối kháng của biện pháp này đối với người thứ ba.
Trong điều kiện hiện nay, việc các tổ chức, cá nhân áp dụng chính xác, toàn diện các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự năm 2015 là yêu cầu quan trọng, giúp các giao dịch được ký kết, thực hiện an toàn, hạn chế những rủi ro pháp lý có thể phát sinh trong thực tiễn./.  
 
Hồ Quang Huy
                                                         
 
 
[1] Đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đm(khoản 1 Điều 3 Nghị đính số 102/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm).
[2] IFC: Khuyến nghị của Nhóm Ngân hàng thế giới cho dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi (chế định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ).
[3] Dĩ nhiên sẽ vẫn có những lựa chọn khác ngoài con đường Tòa án, ví dụ như vụ VPBank AMC thu giữ tài sản bảo đảm là Phòng 1401 Tòa nhà 17T2, phường Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội. 
[4] Kinh nghiệm cho thấy: “Có 56 nước áp dụng quy trình tố tụng giản lược này, nhờ đó thời gian để tiến hành xử lý tài sản thế chấp ở những nước này ít hơn 50% so với những nước dùng các biện pháp xét xử khác“ (Theo ấn phẩm Môi trường kinh doanh năm 2006 do Ngân hàng thế giới và Công ty Tài chính quốc tế đồng xuất bản)
[5] Trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực, vấn đề này được thể hiện tại Bản án sơ thẩm số 26/2011/KT-ST ngày 05/8/2011, Bản án sơ thẩm số 48/2011/KDTM-ST ngày 22/9/2011 của TAND tỉnh Quảng Ngãi
[6] Khoản 3 Điều 336 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”.
[7] Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ với góc độ của thực hiện hợp đồng dân sự.