Giới thiệu, tóm lược chính sách và pháp luật liên quan đến hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp hiện nay

01/10/2018

 
Đặt vấn đề
Hoạt động khởi nghiệp những năm gần đây nhận được nhiều sự quan tâm và nhìn nhận sâu sắc của Đảng, Nhà nước ta, đặc biệt là trong bối cảnh tiệm cận và hình thành các chiến lược xây dựng, phát triển Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong đó, một trong những trụ cột trong hệ sinh thái khởi nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động khởi nghiệp, chính là hệ thống chính sách và pháp luật điều chỉnh và hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp.
Tại khoản 2 Điều 3 Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được định nghĩa là doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh. Bên cạnh đó, để nhận diện thế nào là một chủ thể khởi nghiệp (cá nhân, nhóm cá nhân, doanh nghiệp) tại Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Quốc gia đến năm 2025”, đã đưa ra các tieu chí đó là “Cá nhân, nhóm cá nhân có dự án khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới. Doanh nghiệp khởi nghiệp có thời gian hoạt động không quá 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu”. Qua đó, có thể khẳng định hoạt động khởi nghiệp đã được định vị và nhìn nhận là một quan hệ có tính chuyên biệt, đặc thù, khi mà chủ thể khởi nghiệp lần đầu tiên được điều chỉnh bởi pháp luật. Điều này thể hiện về tầm nhìn chính sách, sự phân biệt giữa chủ thể khởi nghiệp và các doanh nghiệp truyền thống và tư duy hội nhập của những nhà lập pháp, hoạch định chính sách ở Việt Nam.
Ngoài ra, nhìn từ góc độ chung nhất, hoạt động khởi nghiệp vẫn được coi là hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thực thể kinh tế. Do có những điểm chung và được thụ hưởng quyền và nghĩa vụ giống như các thực thể truyền thống (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân…), nên pháp luật điều chỉnh cho các thực thể truyền thống cũng được áp dụng cho các chủ thể khởi nghiệp.
Tham luận này sẽ đưa ra và giới thiệu tóm tắt về hệ thống chính sách, pháp luật liên quan tới hoạt động khởi nghiệp; đưa ra bình luận và đánh giá đối với hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành trên cơ sở kinh nghiệm nghiên cứu từ góc độ cá nhân của tác giả.
I. Giới thiệu tóm lược về chính sách và pháp luật liên quan đến hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp hiện nay
1. Hệ thống các chính sách, pháp luật điều chỉnh trực tiếp:
1.1. Các văn bản chính sách
Các văn bản chính sách đưa ra các định hướng, mục tiêu và giải pháp cơ bản về hỗ trợ, phát triển hoạt động khởi nghiệp trong phạm vi toàn quốc và từng địa phương. Các chính sách này không có giá trị áp dụng bắt buộc (không phải quy phạm pháp luật) nhưng lại tạo cơ sở để thúc đẩy các cơ quan có thẩm quyền triển khai các hoạt động trong thực tế để thúc đẩy hỗ trợ khởi nghiệp. Cụ thể, các chính sách về hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
- Nghị quyết số 19/2015/NQ-CP ngày 12/03/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015 – 2016;
- Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Một trong những giải pháp được Nghị quyết số 35/NQ-CP đưa ra là tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
- Quyết định số 844/QĐ-TTg ban hành ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025”. Đây là văn bản chính sách đầu tiên, bao quát nhất và là nền tảng về chính sách hỗ trợ đối với hoạt động khởi nghiệp của Việt Nam.
- Các Nghị quyết của các Hội đồng nhân dân tỉnh, các Quyết định, Kế hoạch, Chương trình của Ủy ban nhân dân tỉnh về khởi nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Phần lớn các văn bản này được ban hành trong năm 2017, thực hiện Quyết định số 844/QĐ-TTg. Tính tới 10/2017, đã có 22 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có văn bản chính sách về vấn đề này.
- Ngoài ra, còn có một số Đề án khác mà Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn có liên quan tới khởi nghiệp, như:
+ Quyết định 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”: Đây là Đề án do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, không có liên hệ nào với Đề án 844.
+ Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025”.
1.2. Các văn bản pháp luật
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ và phát triển hoạt động khởi nghiệp nói riêng và phát triển doanh nghiệp nói chung, các cơ quan bộ, ngành từ trung ương đến địa phương đã có nhiều hoạt động nghiên cứu về thực trạng khởi nghiệp, nhu cầu điều chỉnh của các đối tượng, góp phần đề xuất các chính sách, đánh giá tác động của chính sách. Vì vậy, trong thời gian qua để đưa những chính sách điều chỉnh và hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp vào cuộc sống, nhiều sáng kiến lập pháp của bộ, ngành ở trung ương và địa phương đã được quy phạm hóa bằng sự ra đời của các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động khởi nghiệp. Đây có thể coi là thành tựu, sự nỗ lực trong thời gian dài của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước, là nỗ lực của một Chính phủ phục vụ doanh nghiệp.
Tính đến nay, các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động khởi nghiệp bao gồm:
- Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là một trong 3 đối tượng trọng tâm để hỗ trợ, thông qua các nhóm giải pháp về hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu, hỗ trợ thông tin, thương mại hóa kết quả nghiên cứu,… Luật cũng điều chỉnh chức năng của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là cho vay, tài trợ DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị.
- Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi năm 2017 quy định nội dung về hỗ trợ ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo; công nhận quyền tài sản đối với quyền sở hữu, quyền sử dụng và các quyền khác phát sinh từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và cho phép sử dụng quyền này như tài sản đảm bảo cho giao dịch vay vốn đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo; cho phép sử dụng quỹ phát triển KH&CN tại doanh nghiệp để đầu tư, đối ứng vốn, nhận vốn đối ứng đầu tư cho KNST; các tổ chức, cá nhân đầu tư và hỗ trợ KNST được hưởng ưu đãi về thuế; có các chính sách thúc đẩy cá nhân và nhóm cá nhân KNST, tổ chức hỗ trợ KNST khai thác, sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hỗ trợ hoạt động của trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ quốc gia.
- Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đưa ra các quy định về phương thức lựa chọn doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo tham gia Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nội dung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo.
- Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo trong đó hướng dẫn về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo; việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo và cơ chế sử dụng ngân sách địa phương đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo…
2.  Hệ thống chính sách, pháp luật điều chỉnh chung:
Hoạt động khởi nghiệp không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chịu sự phụ thuộc, tương tác bởi các hoạt động, thực thể kinh tế khác. Trong suốt vòng đời của một chủ thể khởi nghiệp, từ lúc có ý tưởng kinh doanh sáng tạo cho đến lúc hoạt động bình thường và đạt thành tựu, phải trải qua rất nhiều giai đoạn – được các nhà kinh tế đánh giá có những điểm chung với vòng đời của doanh nghiệp truyền thống. Bên cạnh đó, qua khảo sát đối với thực trạng khởi nghiệp thời gian qua ở Việt Nam, ở giai đoạn đầu các cá nhân hoặc nhóm khởi nghiệp thường không chú trọng trang bị hiểu biết pháp lý để giảm thiểu rủi ro phát sinh.
Khung pháp luật chung áp dụng hiện nay cho hoạt động khởi nghiệp có thể bao gồm:
- Hiến pháp Việt Nam năm 2013 tại Điều 133 ghi nhận về quyền tự do kinh doanh của công dân.
- Bộ luật dân sự năm 2015 đã có các quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm.
- Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định hình thức quản trị cho từng loại hình doanh nghiệp. Bởi lẽ, giống như các doanh nghiệp truyền thống, đối với hoạt động khởi nghiệp, vấn đề quản trị rất quan trọng. Khởi nghiệp là giai đoạn đầu của quá trình xây dựng và thành lập doanh nghiệp trên cơ sở những ý tưởng kinh doanh mới, táo bạo. Việc tạo ra và hình thành một hệ thống Quản trị công ty phù hợp sẽ trợ giúp gia tăng hiệu quả hoạt động công ty ngay từ những ngày đầu mới thành lập và dẫn dắt sự phát triển công ty theo định hướng phát triển rõ ràng trên nền tảng cứng là một khung quản trị công ty vững chắc.[1]
- Luật Đầu tư năm 2014 quy định về đầu tư quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và hoạt động đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài.
- Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh về các cá nhân, tổ chức có hành vi thương mại và các hoạt động thương mại.
- Luật tiếp cận thông tin năm 2016 quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân; nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin; trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
- Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp.
- Thông tư số 78/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp với mục tiêu xác định rõ cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, được thực hiện bằng các hình thức phù hợp, biện pháp và nội dung hỗ trợ pháp lý mà các cơ quan nhà nước phải thực hiện để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Chính phủ đang giao Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ-CP, dự kiến ban hành vào quý IV năm 2018.
- Các văn bản quy phạm pháp luật về điều kiện kinh doanh được các bộ, ngành ban hành đang có hiệu lực hiện nay khoảng 300 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó, ngành Công Thương dẫn đầu với 37 văn bản, kế tiếp lần lượt là ngành Giao thông Vận tải 31 văn bản, Tài chính 26 văn bản, Văn hóa-Thể thao-Du lịch 25 văn bản, Y tế 18 văn bản…[2]
Ngoài ra, còn có các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan thuộc các lĩnh vực như huy động, tiếp cận nguồn lực về vốn; tố tụng; khoa học công nghệ; Thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật; đất đai; xây dựng; thủ tục hành chính; hải quan; đầu tư; lao động...
II. Các bình luận, đánh giá đối với các chính sách và pháp luật liên quan đến hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp hiện nay
Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp về tình hình thi hành pháp luật năm 2017 trong đó có lĩnh vực hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp[3], các bộ, ngành, địa phương đã ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đầy đủ và kịp thời trong thực tiễn đời sống; xây dựng Hệ dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp để hướng dẫn các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật năm 2017…. Góp phần khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp; công khai, minh bạch, đơn giản hóa các thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng trong việc tiếp cận các nguồn lực về vốn, đất đai, lao động và khoa học công nghệ.
Bên cạnh những mặt tích cực, qua rà soát và điều tra khảo sát trên thực tế thời gian qua tại một số tỉnh, thành phố (các nghiên cứu rút ra được trong quá trình triển khai Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2018 và hoạt động nghiên cứu thực tiễn của tác giả), còn tồn tại một số vấn đề trong chính sách, pháp luật liên quan hoạt động khởi nghiệp bao gồm:
Thứ nhất, các quy định về hỗ trợ khởi nghiệp còn thiếu, chưa rõ ràng. Ví dụ như:
- Chưa có các văn bản pháp luật điều chỉnh và hỗ trợ các chủ thể khởi nghiệp là các cá nhân, nhóm cá nhân chưa đăng ký kinh doanh, khi mà phần lớn các chủ thể khởi nghiệp ở giai đoạn đầu là những cá nhân hoặc nhóm cá nhân mới có ý tưởng sáng tạo và chưa thống nhất cùng thành lập thực thể kinh doanh theo Luật doanh nghiệp. Thậm chí, các chủ thể khởi nghiệp là các thanh niên còn đang đi học tại giảng đường, vẫn chưa có cơ chế rõ ràng mặc dù khá nhiều trường đại học trên toàn quốc đã xây dựng mô hình vườn ươm khởi nghiệp. Vì vậy, có thể coi đây là khoảng trống pháp lý điều chỉnh và hỗ trợ với các chủ thể này.
- Pháp luật về bảo hộ ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo chưa thực sự rõ ràng, gây nhiều vướng mắc và thiệt hại cho các chủ thể khởi nghiệp. Mặc dù, khung pháp luật hiện hành đã có các quy định về: góp vốn bằng uy tín, tài sản vô hình vào công ty (Điều 37 Luật doanh nghiệp năm 2014); quyền sở hữu trí tuệ (Luật sở hữu trí tuệ năm 2009), tuy nhiên trên thực tế việc các ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp bị “đánh cắp”, xâm phạm mà không có cơ chế bảo vệ đang diễn ra đáng báo động. Qua điều tra khảo sát tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 5 năm 2018, 5/7 ý kiến của đại diện cộng đồng doanh nghiệp đều nêu vướng mắc này. Do vậy, cần có sự nghiên cứu và kịp thời ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh và hạn chế tối đa những tiêu cực. Bên cạnh đó, nghiên cứu các quy định hỗ trợ khởi nghiệp liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như rút ngắn thời gian đăng kí quyền sở hữu trí tuệ, giảm thiểu chi phí, thủ tục phát sinh…
- Thiếu cơ chế hỗ trợ và thúc đẩy nhà đầu tư nước ngoài về Việt Nam đầu tư cho các chủ thể khởi nghiệp. Bởi lẽ hoạt động khởi nghiệp vô cùng rủi ro, nên các nhà đầu tư cần được ưu đãi hơn so với các nhà đầu tư thông thường. Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có khung pháp lý đặc thù cho những nhà đầu tư thiên thần, nhà đầu tư mạo hiểm, ví dụ như: Mở tài khoản ở Việt Nam phải chứng minh đầu tư và có giấy phép đầu tư. Hoặc đóng thuế cũng khó khăn, pháp luật quy định đóng thuế dựa trên lần chuyển nhượng tuy nhiên đầu tư cho khởi nghiệp ¾ cho công ty thất bại do đó làm cho các nhà đầu tư thua lỗ.
- Liên quan đến pháp luật về huy động vốn: Việt Nam vẫn thiếu nền tảng pháp lý cho mô hình tài chính mới. Một trong những hình thức huy động vốn đầu tư giai đoạn ban đầu đang phát triển rất mạnh trên thế giới là hình thức gọi vốn cộng đồng trên nền tảng internet (crowdfunding). Ở Việt Nam cũng đã bắt đầu hình thành các nền tảng gọi vốn cộng đồng như Fundstart, Tima, Betado. Tuy nhiên, chưa có các văn bản pháp lý quy định về các hình thức gọi vốn này, do đó các nền tảng này còn hoạt động dè dặt, chưa thực sự tạo được ảnh hưởng đến thị trường đầu tư khởi nghiệp. Đặc biệt, hình thức gọi vốn đổi lấy cổ phần chưa có mặt tại Việt Nam.
- Đối với pháp luật hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao – đây là lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam, vẫn còn những quy định chưa rõ ràng hoặc còn khoảng trống pháp lý. Ví dụ như để tham gia vào lĩnh vực này một trong những chính sách là tích tụ, tập trung đất đai. Tuy nhiên pháp luật về tích tụ, tập trung đất đai ở Việt Nam còn thiếu: chưa có văn bản pháp luật nhận diện thế nào là tích tụ, tập trung đất đai và cơ chế nhằm triển khai có hiệu quả các chính sách này bằng khai thác chế định hợp đồng, quyền tài sản… Góp phần điều hòa quyền lợi của nhà đầu tư, người có quyền sử dụng đất và Nhà nước – chủ thể đại diện chủ sở hữu đất đai.
Thứ hai, pháp luật liên quan đến hoạt động khởi nghiệp chưa được áp dụng thống nhất, còn nhiều cách hiểu khác nhau. Ví dụ như:
- Hiện nay chưa có cách hiểu thống nhất về chủ thể khởi nghiệp: có bao gồm cá nhân hay nhóm cá nhân không đăng ký kinh doanh hay không? Do đó có nhiều ý kiến từ cộng đồng khởi nghiệp cho rằng các quy định hiện nay áp dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo có được “áp dụng tương tự pháp luật” cho các cá nhân nhóm cá nhân không đăng ký kinh doanh hay không, trong bối cảnh pháp luật còn nhiều khoảng trống cho các chủ thể này?
- Ý tưởng kinh doanh sáng tạo hiện nay có ý kiến cho rằng cần nhìn nhận là bí mật kinh doanh để được bảo hộ với tư cách đối tượng được bảo hộ của quyền sở hữu công nghiệp (khoản 23 Điều 4, Điều 84, Điều 85 Luật Sở hữu trí tuệ)[4]. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo có những đặc điểm đặc thù, do đó cần có cơ chế pháp lý riêng mà không trùng với đặc điểm của bí mật kinh doanh thông thường.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật cho chủ thể khởi nghiệp còn gặp phải một số vướng mắc, hạn chế, ví dụ như:
- Hiện chưa có văn bản pháp luật nào quy định riêng về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp, mà chủ yếu dựa vào Nghị định số 66/2008/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Do vậy, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến thường dàn trải, tập trung vào khung pháp lý cho doanh nghiệp nói chung, nội dung chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa thực sự bám sát nhu cầu của các doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Các hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật cho chủ thể khởi nghiệp chưa đa dạng, đổi mới, sáng tạo. Qua khảo sát thực tế tại một số Sở Tư pháp tỉnh, thành phố thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được giao cho Phòng phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc bố trí công chức làm nhiệm vụ phổ biến pháp luật liên quan đến hoạt động khởi nghiệp chưa thực sự được quan tâm. Bên cạnh đó, hình thức phổ biến còn lạc hậu, chưa tạo sự lan tỏa rộng rãi, mới chỉ dừng lại ở sổ tay, tờ rơi, áp phích cổ động… Thời gian qua, để thực hiện chủ trương của Chính phủ trong Quyết định số 844/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025”, nhiều cách thức phổ biến chính sách pháp luật khởi nghiệp được đổi mới, sáng tạo được thực hiện bởi một số Công ty thuộc khu vực tư nhân, nhóm cá nhân, ví dụ như: Chương trình “Bàn tròn khởi nghiệp”, “Café khởi nghiệp”, chương trình thực tế trải nghiệm V Startup, Clip “Giải thích thuật ngữ pháp lý, kinh tế, xã hội bằng hình vẽ” trên Youtube…
Ngô Thu Trang
Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế
 Bộ Tư pháp
 
 
[1] Thuonggiaonline.vn, “Quản trị công ty hậu khởi nghiệp, yếu tố sống còn”, http://thuonggiaonline.vn/quan-tri-cong-ty-hau-khoi-nghiep-yeu-to-song-con-5049.htm, truy cập ngày 21/4/2018.
[2] Saigondautu.com, “Cắt xén” điều kiện kinh doanh để hành doanh nghiệp”, http://saigondautu.com.vn/doanh-nghiep-thi-truong/cat-xen-dieu-kien-kinh-doanh-de-hanh-doanh-nghiep-46162.html, truy cập ngày 14/4/2018.
[3] Báo cáo số 322/BC-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ Tư pháp về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật năm 2017.
[4] Điều 4. Giải thích từ ngữ
 23. Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
Điều 84. Điều kiện chung đối với bí mật kinh doanh được bảo hộ
Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;
2. Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó;
3. Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Điều 85. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh
Các thông tin bí mật sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh:
1. Bí mật về nhân thân;
2. Bí mật về quản lý nhà nước;
3. Bí mật về quốc phòng, an ninh;
4. Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.