Nghĩa vụ bồi thường theo bản án, quyết định dân sự theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017

19/09/2018
Ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN), Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018. Theo đó, điểm mới quy định người bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường ngay từ khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường đã tác động đến tiêu chí phân định hồ sơ vụ việc cấp kinh phí bồi thường theo thủ tục bảo đảm tài chính và hồ sơ vụ việc cấp kinh phí theo thủ tục bồi thường nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành.

Thời gian qua đang tồn tại hai cơ chế thi hành nghĩa vụ bồi thường của cơ quan nhà nước theo bản án, quyết định của Tòa án đó là: bồi thường nhà nước (áp dụng Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết) và bảo đảm tài chính (áp dụng Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết). Tuy nhiên, trên thực tế, việc nhận thức và áp dụng hai cơ chế này để thi hành nghĩa vụ bồi thường của cơ quan nhà nước theo bản án, quyết định của Tòa án còn chưa rõ ràng, thấu đáo và gặp nhiều khó khăn [1].
1. Điểm mới trong Luật TNBTCNN năm 2017 tác động đến tiêu chí phân định hồ sơ vụ việc cấp kinh phí bồi thường theo trình tự thủ tục bảo đảm tài chính hay bồi thường nhà nước
Khoản 1 Điều 52 Luật TNBTCNN năm 2017 quy định: “Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường trong các trường hợp sau đây:
a) Người yêu cầu bồi thường chưa yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường;
b) Người yêu cầu bồi thường rút yêu cầu bồi thường quy định tại điểm a khoản 1 Điều 51 của Luật này”.
Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung cơ chế giải quyết vụ án dân sự về yêu cầu bồi thường. Hiểu theo một cách khác, khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án để yêu cầu giải quyết bồi thường mà không bắt buộc phải nộp đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại.
Như vậy, từ ngày 01/7/2018 trở về sau, phạm vi áp dụng cơ chế bảo đảm tài chính đối với nghĩa vụ bồi thường của cơ quan nhà nước theo bản án, quyết định của Tòa án sẽ loại trừ thêm trường hợp quy định tại Điều 52 Luật TNBTCNN năm 2017 (người bị thiệt hại khởi kiện ngay ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường).
2. Một số ý kiến về việc hướng dẫn cơ quan nhà nước áp dụng pháp luật để thực hiện nghĩa vụ bồi thường theo bản án, quyết định dân sự kể từ thời điểm Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có hiệu lực (ngày 01/7/2018)
2. 1. Đối với các bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường mà Tòa án đã thụ lý trước ngày 01/7/2018
2.1.1. Những bản án, quyết định có nội dung giải quyết bồi thường của Tòa án có đủ hai điều kiện: (1) Thuộc phạm vi TNBTCNN theo quy định tại Điều 38 Luật TNBTCNN năm 2009; (2) cơ quan nhà nước đã thụ lý, giải quyết theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2009 và người yêu cầu bồi thường khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật TNBTCNN năm 2009, thì trình tự, thủ tục cấp kinh phí và chi trả tiền bồi thường được thực hiện theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể:
Căn cứ theo quy định tại Điều 54 Luật TNBTCNN năm 2009, khoản 1 Điều 18 Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BTP-BQP ngày 07/12/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động THADS, Thông tư liên tịch số 71/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 09/5/2012 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cơ quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường gửi hồ sơ về cơ quan cấp trên trực tiếp để thẩm định, đề nghị Bộ Tài chính cấp kinh phí, chi trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại.
2.1.2. Những bản án, quyết định có nội dung giải quyết bồi thường của Tòa án không đủ hai điều kiện đã nêu tại điểm 1.1, mà cơ quan nhà nước có nghĩa vụ thi hành án đủ điều kiện bảo đảm tài chính quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10/6/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án, thì cơ quan nhà nước căn cứ Điều 8, Điều 9 của Thông tư này để lập và gửi hồ sơ về cơ quan cấp trên để xem xét, đề nghị Bộ Tài chính thẩm định, cấp kinh phí bảo đảm tài chính để thi hành án.
2.2. Đối với các bản án, quyết định có nội dung giải quyết bồi thường mà Tòa án thụ lý từ ngày 01/7/2018 trở về sau
2.2.1. Những bản án, quyết định có nội dung giải quyết bồi thường của Tòa án đủ hai điều kiện: (1) Thuộc phạm vi TNBTCNN theo quy định tại Điều 38 Luật TNBTCNN năm 2009; (2) cơ quan nhà nước đã thụ lý trước ngày 01/7/2018 và giải quyết theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2009 nhưng người yêu cầu bồi thường khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật TNBTCNN năm 2009 và Tòa án thụ lý giải quyết từ ngày 01/7/2018, thì trình tự, thủ tục cấp kinh phí và chi trả tiền bồi thường được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm 2.1.1 nêu trên.
2.2.2. Những bản án, quyết định có nội dung giải quyết bồi thường của Tòa án thuộc phạm vi TNBTCNN theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 mà người yêu cầu bồi thường khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường (Điều 52) thì trình tự, thủ tục cấp kinh phí và chi trả tiền bồi thường được thực hiện theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể:
Căn cứ theo quy định tại Điều 54 và Điều 62 của Luật TNBTCNN năm 2017, cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường đến Bộ Tài chính để đề nghị cấp kinh phí, chi trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại.
2.2.3. Những bản án, quyết định có nội dung giải quyết bồi thường nhưng không thuộc phạm vi TNBTCNN theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 mà cơ quan nhà nước có nghĩa vụ thi hành án đủ điều kiện bảo đảm tài chính quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC, thì cơ quan nhà nước căn cứ Điều 8, Điều 9 Thông tư này để lập và gửi hồ sơ về cơ quan cấp trên để xem xét, đề nghị Bộ Tài chính thẩm định cấp kinh phí bảo đảm tài chính để thi hành án.
 
ThS. Nguyễn Phúc Đạt
 
Tài liệu tham khảo:
1. Xem thêm tại: http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2273
2. Quốc hội (2008), Luật thi hành án dân sự năm 2008.
3. Quốc hội (2009), Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
4. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự.
5. Quốc hội (2017), Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.