Những khoảng trống trong chính sách pháp luật về phụ nữ - đề xuất giải pháp

23/11/2017
Có thể nói, quyền của phụ nữ và trẻ em nói chung, trẻ em gái nói riêng ở Việt Nam trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp luật đều thể hiện rõ 2 yếu tố căn bản đó là “bình đẳng và ưu tiên”. Có những quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính trị, kinh tế và trong đời sống gia đình. Còn quyền ưu tiên (trong việc tuyển dụng, sắp xếp công việc, nghỉ hưu, các chính sách ưu đãi về vốn...) có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội, đồng thời tránh rủi ro trong nghề nghiệp, trong cuộc sống gia đình và xã hội.

Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, Luật Bình đẳng giới và Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật hôn nhân gia đình, Bộ luật hình sự và rất nhiều luật khác đã được Quốc hội thông qua, trong đó, quyền của phụ nữ, trẻ em đã được đảm bảo, nhiều chính sách, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới[1] đã được quy định nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ. Chính phủ phê duyệt và thực hiện hiệu quả các chiến lược, chính sách, chương trình hành động về sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới phù hợp với từng giai đoạn từ năm 1997 đến nay và đến năm 2020.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật đó, vai trò và địa vị của phụ nữ Việt Nam trong mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội đã được nâng lên. Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội ở mức cao trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Khoảng cách chênh lệch về giới trong tiếp cận giáo dục hầu như không còn trong tất cả các bậc học - thậm chí nhiều phụ nữ đạt được bằng đại học và cao đẳng hơn nam giới. 48,5% lực lượng lao động của Việt Nam là phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ tham gia điều hành, quản lý doanh nghiệp đạt hơn 20%. Trong lĩnh vực chính trị, lần đầu tiên Việt Nam có 2 nữ Ủy viên Bộ chính trị, 2 nữ Phó Chủ tịch Quốc hội, 1 nữ Phó Chủ tịch nước (hiện nay đã có 3 nữ ủy viên Bộ Chính trị). Trên bình diện khu vực, Việt Nam đã tích cực và chủ động đưa ra nhiều sáng kiến để thúc đẩy địa vị của phụ nữ, đặc biệt là việc hình thành và phát triển mạng lưới doanh nhân nữ ASEAN. Việt Nam đã đạt được các chỉ số xếp hạng đáng khích lệ trong thực hiện bình đẳng giới của Liên hợp quốc, đứng thứ ba trong khu vực ASEAN và thứ 47 trong 187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng[2].
1. Các kết quả đạt được
Ở Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em không phải mới được đặt ra, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên, việc tuyên bố “đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9) đã khẳng định với thế giới phụ nữ Việt Nam đã đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng mọi quyền công dân. Điều này tiếp tục được khẳng định qua các bản Hiến pháp sau này. Đó là “phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình’’ (Điều 24, Hiến pháp 1959); “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 59, Hiến pháp 1980). Đến Hiến pháp 1992 về cơ bản, quyền của phụ nữ trong Hiến pháp năm 1992 kế thừa những quy định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980, nhưng nhấn mạnh thêm "nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ" (Điều 63).
Đặc biệt, Hiến pháp 2013 đã có nhiều quy định mang tính đột phá nhằm đảm bảo bình đẳng giới, bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em được dư luận trong nước và nước ngoài đánh giá cao, những quy định cởi mở, đậm tính quốc tế về quyền con người được thể hiện tập trung thành mục riêng, tạo thành điểm nhấn về nhân quyền ở Chương II và xuyên suốt toàn bộ Hiến pháp 2013. Theo đó, mọi người có quyền sống, quyền có nơi ở hợp pháp, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về nhà ở, về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; được pháp luật bảo hộ quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác theo quy định của luật… Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Phụ nữ được tạo điều kiện để phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em…
Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác phụ nữ và giới, ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật bình đẳng giới. Luật đã quy định nhiều biện pháp khác nhau để bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, gia đình, trong đó, lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) được coi là một biện pháp hữu hiệu và quan trọng, làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới một cách thực chất và cơ bản.
Bên cạnh đó, để đảm bảo cơ hội, điều kiện cho phụ nữ phát triển, bảo đảm bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ, nhiều quy định của pháp luật đã được ban hành như:
- Chính sách về bảo hiểm xã hội, về lao động đã có những quy định để đảm bảo quyền của người phụ nữ như: phụ nữ được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội về chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, mất sức lao động... Bộ luật lao động cũng đã quy định quyền lợi mang tính đặc thù đối với người phụ nữ như: lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai (nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp), nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100% tiền lương, dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu. Ngoài ra, các đối tượng xã hội là phụ nữ cũng được hưởng trợ giúp vật chất với tư cách đối tượng cứu trợ xã hội; Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2013 dành một chương (Chương X) quy định riêng về lao động nữ. Theo đó, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình. Luật quy định rõ, nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam, nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động; lao động nữ được dành thời gian để cho con bú, làm vệ sinh phụ nữ; không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì kết hôn, có thai, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Đặc biệt, Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2013 quy định tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành 6 tháng;
- Chế độ hỗ trợ thai sản cho phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa là đồng bào dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số;
- Thời gian nghỉ thai sản của phụ nữ theo chế độ nhà nước được tính là thời gian để xem xét, tặng danh hiệu “lao động tiên tiến”, “chiến sỹ thi đua cơ sở”.
- Sửa đổi tuổi nghỉ hưu đối với người lao động theo hướng giữ nguyên tuổi của nữ là 55, nam là 60, giảm tuổi nghỉ hưu đối với người bị suy giảm khả năng lao động, làm công việc đặ biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo thuộc danh mục do Chính phủ quy định và tăng tuổi nghỉ hưu cho nhóm có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, người làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác.
2. Các khó khăn, bất cập
Trong thời gian qua, Nhà nước ta cơ bản đã ban hành tương đối đầy đủ pháp luật về phụ nữ; tuy nhiên quá trình triển khai thực hiện cho thấy pháp luật về vấn đề này vẫn còn một số hạn chế, bất cập nhất định - đây là những vấn đề cản trở cho việc thực thi pháp luật, tổ chức thi hành pháp luât. Cụ thể là:
2.1. Việc tổ chức thi hành
- Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện dẫn đến các chính sách, quy định không đi vào cuộc sống, đơn cử: (i) Nghị định số 39/2015/NĐ-CP quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số (sau 9 năm kể từ khi Luật bình đẳng giới được ban hành thì chính sách này vẫn chưa được thực hiện; Nghị định được ban hành nhưng còn phải chờ Thông tư hướng dẫn); (ii) trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoản 4 Điều 14 Luật bình đẳng giới quy định “nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ” hay trong lĩnh vực chính trị, tại điểm a khoản 5 Điều 11 Luật bình đẳng giới quy định “bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới”; tuy nhiên đến thời điểm này sau hơn 10 năm luật có hiệu lực thì các quy định trên rất khó thực thi do chưa có các văn bản hướng dẫn; (iii) việc xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ cho hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chưa được triển khai mặc dù Nghị định số 48/2009/NĐ-CP đã ban hành gần 7 năm (khoản 2 Điều 19).
- Một số chính sách, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đã được ban hành nhưng trên thực tế không phát huy hiệu quả, chẳng hạn như: Luật bình đẳng quy định mang tính "ưu tiên" trong một số lĩnh vực của đời sống gia đình, xã hội, tuy nhiên trên thực tế đang tạo ra rào cản đối với sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các hoạt động xã hội. Ví dụ, quy định "Các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật" (điểm a khoản 2 Điều 12) là một biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế nhưng trong thực tiễn hầu hết các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ không được hưởng lợi. Nguyên nhân là do các quy trình, thủ tục để được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp khá phức tạp, số tiền được giảm thuế chưa bù đắp được các chi phí khi áp dụng các ưu đãi dành cho lao động nữ, vì vậy, các doanh nghiệp thường ngại hoặc không muốn tiếp cận với chính sách ưu đãi này. Trong khi chính sách hỗ trợ và bảo vệ người sử dụng lao động nữ còn thiếu và chưa cụ thể thì các chính sách hiện hành bảo vệ lao động nữ lại tương đối đầy đủ, do đó chưa khuyến khích được doanh nghiệp sử dụng lao động nữ.
- Một số quy định bảo đảm việc đẳng giới dưới góc độ của pháp luật nhưng lại chưa đảm bảo bình đẳng giới thực chất trên thực tế do thiếu các điều kiện bảo đảm. Cụ thể: (i) quy định "Nam nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức" (khoản 4 Điều 11 Luật bình đẳng giới), mặc dù đã có quy định nhưng trên thực tế áp dụng páp luật còn gặp khó khăn. Điều đáng lưu ý ở đây là, vấn đề quy định tuổi hưu của phụ nữ và nam giới đang khác biệt 5 năm trong khi đó lại quy định "bình đẳng" trong cách tính nhiệm kỳ quản lý (5 năm) là chưa hợp lý; (ii) hoặc quy định đối xử bình đẳng để bảo đảm bình đẳng - nghĩa là quy định như nhau giữa phụ nữ và nam giới. Ví dụ, Điều 20 Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định 05 điều kiện để công chức được cử đi đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ gồm: (i) có thời gian công tác từ đủ 5 năm trở lên; (ii) chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí việc làm; (iii) không quá 40 tuổi tính từ thời điểm được cử đi đào tạo; (iv) có cam kết tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, công vụ sau khi hoàn thành chương trình đào tạo trong thời gian ít nhất gấp 03 lần thời gian đào tạo; (v) có ít nhất 03 năm liên tục hoàn thành tốt nhiệm vụ". Quy định này là bình đẳng giữa nam và nữ, tuy nhiên, khi phân tích các điều kiện này trong tương quan giữa công chức nam và nữ sẽ xuất hiện sự chênh lệch về số năm cơ hội thực hiện quyền của mỗi người theo hướng bất lợi nghiêng về nữ (thấp hơn 4 - 5 năm so với nam). Sự chênh lệch này bắt nguồn từ khoảng trống gián đoạn thời gian mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ, chênh lệch 5 năm nghỉ hưu trong khi đó, mặt bằng độ tuổi được cử đi học là như nhau.  
- Một số quy định còn mang tính định tính, khó định lượng (tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội; tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước); quy định nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới…
- Định kiến giới vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong đời sống xã hội với danh nghĩa là các giá trị truyền thống, các phong tục tập quán, ví dụ như tư tưởng "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", văn hóa hay tín ngưỡng “thờ cúng tổ tiên”, “nối dõi tông đường” thường được coi là “trọng trách” của người đàn ông, nên con trai thường được thừa kế đất đai, "con hư tại mẹ, cháu hư tại bà", cha mẹ thường định hướng cho con gái những nghề nghiệp mang tính xã hội còn con trai thì làm khoa học, kỹ thuật, phụ nữ phải "giỏi việc nước, đảm việc nhà"… Chính vì vậy, việc thực thi pháp luật về bình đẳng giới, bảo đảm cho phụ nữ được thụ hưởng các quyền luật định gặp rất nhiều khó khăn trong thực tiễn, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng kinh tế khó khăn.
2.2. Thiếu cơ chế báo đảm thực hiện
2.2.1. Kỹ năng nhận diện giới, xác định vấn đề giới
Để đảm bảo bình đẳng giới thực chất thì Luật bình đẳng giới đã quy định việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL là một trong những giải pháp để đảm bảo thực hiện hiệu quả mục tiêu này - đây cũng là giải pháp căn bản để bảo đảm tính bền vững. Tuy nhiên, sau 10 năm thi hành Luật bình đẳng giới thì việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nguyên nhân là cán bộ, công chức làm công tác tham mưu, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật còn hạn chế về kiến thức giới, chưa nắm chắc các khái niệm về bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới, biện pháp thúc đẩy về giới, kỹ năng xác định vấn đề giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, đánh giá tác động giới[3]. Đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới mới được hình thành, nên còn rất thiếu về số lượng và hạn chế về kiến thức giới, kỹ năng lồng ghép giới. Thiếu các chuyên gia có kiến thức, kỹ năng lồng ghép giới trong các ngành chuyên môn[4].
- Trong triển khai công tác bình đẳng giới, nhiều nơi chưa thực sự hiểu rõ yêu cầu của công việc này, do đó, sự phối hợp đôi khi còn lúng túng, chưa hiệu quả. Việc lồng ghép vấn đề giới vào công tác chuyên môn chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Trong chỉ đạo, điều hành, một số nơi còn chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực công tác này nên chưa bố trí cán bộ và tạo điều kiện cho hoạt động bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ.  
2.2. Các điều kiện bảo đảm khác
Bên cạnh yếu tố con người thì các điều kiện bảo đảm khác đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật.
- Kinh phí để đảm bảo cho công tác xây dựng pháp luật chưa thể đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ. Thông tư số 338/2016/TT-BTP ngày 28/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản QPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật mặc dù đã bổ sung nội dung chi, nâng mức chi cho công tác này nhưng thực tế vấn chưa thể đáp ứng được yêu cầu của công việc. Ví dụ: mức chi để xây dựng Báo cáo đánh giá tác động của chính sách hoặc báo cáo đánh giá tác động của văn bản đối với một dự án luật, pháp lệnh là 8 triệu đồng (gồm đánh giá tác động kinh tế, xã hội, giới, thủ tục hành chính và hệ thống pháp luật), rõ ràng với mức chi này thì khó có thể đảm bảo việc đánh giá và xây dựng báo cáo chất lượng, đáp ứng yêu cầu.
- Hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về giới cũng chưa được thống kê đầy đủ[5], đặc biệt là chưa có cơ sở dữ liệu phân tách giới dẫn đến việc xác định vấn đề giới, nhận diện giới gặp nhiều khó khăn.
- Sự quan tâm và nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo đối với công tác bình đẳng giới còn ở mức độ, điển hình như việc thực hiện chế độ báo cáo và thống kê về thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới ở một số bộ ngành và nhiều địa phương chưa nghiêm túc, làm ảnh hưởng đến công tác thống kê số liệu toàn quốc. Bộ máy thực hiện công tác bình đẳng giới còn hạn chế về số lượng và chất lượng. Ngân sách bố trí cho hoạt động bình đẳng ngày càng giảm[6]
3. Đề xuất, kiến nghị
- Nghiên cứu sửa đổi bổ sung Luật bình đẳng giới và các luật có liên quan, đặc biệt là các quy định liên quan đến cơ chế bảo đảm thi hành các quy định của Luật. Cụ thể: về khái niệm, thực hiện việc rà soát các văn bản có liên quan (Luật bình đẳng giới, các văn bản hướng dẫn Luật bình đẳng giới, Luật ban hành văn bản QPPL 2015 để sử dụng thống nhất khái niệm là “lồng ghép vấn đề bình đẳng giới” hay “tác động giới”,… Đề nghị sử dụng khái niệm “lồng ghép giới” thay cho khái niệm “lồng ghép vấn đề bình đẳng giới”. Việc sử dụng khái niệm “lồng ghép vấn đề bình đẳng giới” là chưa bảo đảm sự chuẩn xác bởi bình đẳng giới là mục tiêu hướng tới không phải là nhiệm vụ. Để đảm bảo mục tiêu bình đẳng giới thì phải thực hiện việc lồng ghép giới. Việc sử dụng khái niệm “lồng ghép giới” cũng đảm bảo sự thống nhất với khái niệm “giới”, “bình đẳng giới”, “phân biệt đối xử về giới”, “biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới” được quy định tại Điều 5 Luật bình đẳng giới. Đối với các văn bản hướng dẫn thi hành Luật bình đẳng, cần rà soát để hướng dẫn thực hiện lồng ghép giới theo 2 quy trình, đó là quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo[7]; cách thức thể hiện các phụ lục, biểu mẫu, số liệu về giới.
- Cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn về bình đẳng giới để đảm tính khả thi trong quá trình thực hiện. Khi xây dựng các văn bản QPPL cần (i) phân tích kỹ và nhiều chiều các phương án chính sách, dự thảo quy định pháp luật hoặc dự kiến hoạt động trong mối tương quan với những tác động, ảnh hưởng từ sự khác biệt về giới tính và những bất lợi về giới trên thực tế của phụ nữ trước khi quyết định ban hành để giảm nguy cơ tạo khoảng cách giới; (ii) đổi mới cách tiếp cận với phụ nữ, phân loại các nhóm phụ nữ khác nhau, tiến tới việc nhìn nhận phụ nữ là đối tác chứ không chỉ là người được thụ hưởng, người được bảo hộ, bảo vệ để xác định rõ phương pháp tổ chức các hoạt động phù hợp; xác định các nhiệm vụ, các hoạt động bảo đảm giải quyết và góp phần giải quyết những vấn đề riêng cho phụ nữ (trình độ, năng lực, công việc, sở thích cá nhân) và liên quan đến gia đình, con cái; tiếp cận giải quyết những vấn đề của phụ nữ trong mối tương quan với nam giới[8]...
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật và chính sách gây bất lợi đối với phụ nữ trong các lĩnh vực; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, tăng các chính sách bù đắp dành riêng cho phụ nữ theo từng nhóm cụ thể: (i) Đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức: chính sách, quy định pháp luật về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại, quy hoạch, bổ nhiệm, các vấn đề an sinh xã hội hỗ trợ hài hòa công việc xã hội, gia đình và tuổi lao động; (ii) Đối với phụ nữ nông thôn: chính sách, quy định pháp luật bảo đảm cơ hội và tạo điều kiện để xóa đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm giàu; tổ chức tốt cuộc sống gia đình, chăm sóc, nuôi dạy con tốt; bảo hiểm xã hội (thai sản, tuổi già); an toàn và vệ sinh lao động...; (iii) Đối với lao động nữ (đặc biệt lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, lao động ngoài nhà nước): chính sách, quy định pháp luật về nhà ở, nhà trẻ, mẫu giáo, việc làm ổn định, tiền lương và thu nhập...; (iv) Đối với phụ nữ làm chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh cá thể: chính sách, quy định pháp luật bảo đảm cơ hội và tạo điều kiện thúc đẩy thương mại, xuất khẩu hàng hóa và có giảm thuế trong thời gian nghỉ sinh con.
- Ban hành và thực thi các biện pháp mạnh để xoá bỏ định kiến giới; tăng cường các biện pháp khôi phục hương ước lành mạnh; coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ… Tăng cường việc tập huấn, bồi dưỡng kiến thức giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định chính sách, cán bộ pháp chế của các bộ, ngành, địa phương.
- Chú trọng và nâng cao hiệu quả việc tổ chức thi hành pháp luật nhằm bảo đảm các quy định của pháp luật sớm được thực thi và thực thi đúng. Quan tâm chỉ đạo, đẩy mạnh kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật.
- Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản liên quan đến vấn đề bình đẳng giới cần bám sát các định hướng của Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước, Nghị quyết 48-NQ/TW về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020 và Kết luận của Bộ Chính trị về 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW.
Kết luận:
Nhìn chung, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã có tiến bộ vượt bậc so với trước. Dưới góc độ quy định của pháp luật, phụ nữ và nam giới về cơ bản có sự bình đẳng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ vẫn còn tồn tại, hạn chế, nhiều quy định của pháp luật là bình đẳng nhưng trên thực tế lại chưa bảo đảm bình đẳng thực chất. Để khắc phục những khoảng cách giới là nhiệm vụ quan trọng, nhằm bảo đảm lợi ích của từng giới trong việc thực thi quyền con người ở Việt Nam như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi vấn đề bình đẳng nam - nữ là “một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội... Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công”[9]./.
Thái Thị Hải Yến
 
[1] Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định tại Điều 19 Luật bình đẳng giới bao gồm: (i) Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng lợi ích trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tỷ lệ này phải hướng tới các chỉ tiêu được xác định trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, trong đó chú trọng đến phụ nữ ở khu vực nông thôn; (ii) Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam, trong đó chú trọng phụ nữ ở khu vực nông thôn, để họ có thể đáp ứng được với yêu cầu về chất lượng lao động theo quy định của pháp luật trong các ngành, nghề khác nhau; (iii) hỗ trợ và tạo điều kiện, cơ hội trong việc chia sẻ, trách nhiệm đối với gia đình cho cả nam và nữ phù hợp với các mục tiêu bình đẳng giới; (iv) Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam; (v) Quy định việc ưu tiên nữ hoặc nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam.
[2]Theo:http://www.vietnamembassy.nl/vi/nr070521165843/nr070521170351/news_object_view?newsPath=/vnemb.vn/tin_hddn/ns150311163416
[3] Nhiều báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh vẫn còn chung chung, mờ nhạt, thời hạn chuyển hồ sơ sang Bộ Tư pháp để thẩm định theo quy định của Luật ban hành văn bản QPPL 2015 rất ngắn nên Bộ Tư pháp cũng gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định. Ví dụ trong đánh giá tác động chính sách của đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 thì qua nghiên cứu hồ sơ các đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh, Bộ Tư pháp thấy rằng đa số các hồ sơ đều đã thực hiện theo đúng quy trình của Luật ban hành văn bản QPPL 2015, thực hiện việc đánh giá tác động về: kinh tế, xã hội, hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính và giới. Tuy nhiên, chất lượng của các đánh giá tác động chưa thực sựu đáp ứng được đúng yêu cầu cảu Luật ban hành văn bản QPPL 2015, đặc biệt là các đánh giá tác động giới. Hầu hết các đánh giá tác động về giới trong các đều nghị xây dựng luật pháp lệnh đều dừng ở việc xác định các đề xuất không phân biệt đối xử về giới, chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung hoặc xác định lĩnh vực chính sách điều chỉnh không có tác động giới (Đề nghị xây dựng các dự án: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học, Luật giáo dục, Luật về máu và tế bào gốc, Luật quản lý phát triển đô thị, Luật kiến trúc, Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Luật hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi) và thể hiện cụ thể trong Báo cáo đánh giá tác động của đề xuất chính sách. Bên cạnh đó, một số đề xuất xây dựng luật không thể hiện rõ về nội dung đánh giá tác động về giới mà chỉ đánh giá tác động của chính sách về mặt kinh tế, xã hội, pháp luật - điều này cũng có thể hiểu là đề xuất chính sách đó không có tác động về giới (Đề nghị xây dựng: Luật phòng chống tác hại của rượu, bia, Luật cảnh sát biển, Luật trồng trọt,  Luật chăn nuôi, Luật thuế bảo vệ môi trường, Luật hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu).
[4] Hiện nay, gần như chỉ có Ủy ban các vấn đề xã hội là đã hình thành được đội ngũ chuyên gia về giới có kinh nghiệm. Bộ Tư pháp với sự hỗ trợ của Dự án NLD cũng đã thành lập Nhóm chuyên gia giới (theo Quyết định số 1985/QĐ-BTP ngày 21/9/2016) tuy nhiên, thực tế ngoài các chuyên gia độc lập là có kinh nghiệm về giới, lồng ghép giới thì các chuyên gia còn lại của  Nhóm này cũng mới chỉ dừng lại ở việc tham gia và làm đầu mối tại các Bộ, ngành.
[5] Theo quy định tại Quyết định số 56/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày  14/10/2011 về việc ban hành Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia thì có 105 chỉ tiêu trong đó có 02 chỉ tiêu liên quan đến việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL, đó là tỷ lệ văn bản QPPL được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới và tỷ lệ thành viên ban soạn thảo, tổ biên tập xây dựng dự thảo văn bản QPPL được tập huấn kiến thức về giới. Tuy nhiên, theo số liệu tổng hợp trên cơ sở mức độ thu thập, công bố các chỉ tiêu thì trong 105 chỉ tiêu có 04 chỉ tiêu chưa công bố đầy đủ, 09 chưa công bố, 68 chỉ tiêu thu thập chưa đầy đủ và 24 chỉ tiêu chưa thu thập[5]. Việc các số liệu thống kê chưa đầy đủ, đặc biệt là chưa có cơ sở dữ liệu phân tách giới gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL.
[6] Báo cáo số 4673/BC-UBCVĐXH ngày 21/3/2013 của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội.
[7] Luật ban hành văn bản QPPL 2015 đã tách bạch giữa quy trình đề xuất chính sách và quy trình soạn thảo. Theo đó, tại quy trình đề xuất chính sách, cơ quan đề xuất cần xác định chính sách, đánh giá tác động chính sách (đánh giá tác động kinh tế, xã hội, giới, thủ tục hành chính (nếu có) và hệ thống pháp luật).
[8]  Nếu giải pháp chính sách được lựa chọn để giải quyết vấn đề giới là biện pháp thúc đẩy BĐG thì cần quy định chặt chẽ đối tượng, điều kiện áp dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm thi hành, kiểm tra, giám sát việc thi hành các biện pháp này để tránh lạm dụng, phát hiện và xử lý vi phạm (không thực hiện hoặc thực hiện trái quy định pháp luật biện pháp thúc đẩy BĐG). Nếu giải pháp chính sách được lựa chọn là các giải pháp hỗ trợ và bảo vệ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ thì cần lưu ý quy định đối tượng được hưởng quyền, lợi ích hợp pháp từ việc áp dụng giải pháp chính sách đó phải bao gồm cả người bố đơn thân nuôi con nhỏ hoặc người bố phải trực tiếp nuôi con nhỏ trong trường hợp người mẹ vì những lý do đặc biệt không thể trực tiếp nuôi con nhỏ. Đồng thời, cũng cần quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức phải đảm bảo các điều kiện thực hiện việc hỗ trợ và bảo vệ bà mẹ, việc kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm trong việc thực hiện các giải pháp này. Nếu giải pháp chính sách được lựa chọn là giải pháp đặc thù đối với các nhóm yếu thế, có khó khăn đặc biệt về thể chất hoặc tinh thần, sinh sống tại các địa bàn khó khăn, đặc biệt khó khăn thì cần quy định các biện pháp thi hành cụ thể, phù hợp với từng đối tượng, đia bàn đồng thời xác định trách nhiệm bảo đảm các nguồn lực cho việc thi hành các biện pháp này từ phía Nhà nước (trung ương và địa phương) và huy động sự tham gia, đóng góp từ phía xã hội.
 
[9] Hồ Chủ tịch với vấn đề phụ nữ, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1962, tr. 23