Một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần được hướng dẫn

13/11/2017
 
Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 41/2017/NQ-QH14 ngày 20/6/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Đây là một trong những đạo luật quan trọng về tố tụng tư pháp liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật. Qua nghiên cứu, từ thực tiễn xét xử, người viết thấy còn một số vướng mắc, bất cập chắc chắn sẽ gây trở ngại cho việc áp dụng thống nhất pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Cụ thể:
Thứ nhất, tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 41 BLTTHS năm 2015, quy định khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn:
“a) Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết định nhập, tách vụ án;”
Từ nội dung các quy định này, có ý kiến cho rằng có sự trùng lặp về quyền khởi tố và quyền không khởi tố; bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Nhưng theo tác giả, quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 41 BLTTHS năm 2015 hoàn toàn không có sự trùng lặp, mà ngược lại, có sự tách bạch thể hiện rất rõ vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật hoạt động tố tụng, nhất là khâu đầu vào. Theo đó, nội dung quy định tại điểm a khoản 2 Điều 41 BLTTHS năm 2015, đề cập đến hoạt động kiểm sát khi cơ quan điều tra tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, từ đó, “yêu cầu” cơ quan này ra quyết định khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Còn nội dung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 41 BLTTHS năm 2015, được áp dụng trong trường hợp khi Viện kiểm sát cùng cấp đã có yêu cầu cơ quan điều tra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố; bổ sung, thay đổi...nhưng cơ quan này không thực hiện, thì căn cứ kết quả kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, Việm kiểm sát có quyền ra một trong các quyết định ghi nhận tại điểm b khoản 2 Điều này.
Thứ hai, về thủ tục đăng ký bào chữa quy định tại Điều 78 BLTTHS năm 2015.
Tại khoản 6 của Điều luật này, quy định: “Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp:
a) Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa;
b) Người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b[1] khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa...”
Ngày 19/9/2017, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP, ban hành một số mẫu biểu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Bộ luật Tố tụng hình sự, trong đó, có mẫu số 13-HS “Thông báo về việc người bào chữa tham gia tố tụng”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, không ít trường hợp đã có văn bản thông báo người bào chữa do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền cấp, nhưng sau đó, xảy ra các trường hợp quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 6 Điều 78 BLTTHS năm 2015, thì cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án đó, có phải ra văn bản thông báo về việc từ chối hoặc thay đổi người bào chữa cho người bào chữa biết hay không? Vấn đề này, thực tiễn mỗi nơi thực hiện mỗi khác, chưa có sự thống nhất trong toàn hệ thống giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Có quan điểm cho rằng, do luật không quy định trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án phải ra văn bản thông báo về việc từ chối hoặc thay đổi người bào chữa, mà người bào chữa tự tìm hiểu lấy, vì đó là nghĩa vụ của Luật sư – Người bào chữa. Nhưng cũng có quan điểm khác theo hướng cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án đó, phải ra văn bản thông báo cho người bào chữa biết việc yêu cầu từ chối hoặc thay đổi người bào chữa từ phía người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội, những người ủng hộ quan điểm này lý giải rằng: Nếu cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận yêu cầu từ chối hoặc thay đổi người bào chữa mà không kịp thời thông báo, thì đương nhiên, người bào chữa vẫn có quyền yêu cầu Ban Giám thị cho họ gặp, làm việc với người bị buộc tội theo quy định tại khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015. Bởi lẽ về mặt pháp lý, họ vẫn đương nhiên là người bào chữa. Nhưng nếu viện dẫn lý do người yêu cầu đã từ chối hoặc thay đổi người bào chữa (trường hợp chưa có Thông báo mới về việc người bào chữa tham gia tố tụng), mà không đưa ra văn bản pháp lý nào để chứng minh là không thuyết phục, dễ gây hiểu nhầm. Văn bản thể hiện ý chí phía người từ chối hoặc thay đổi người bào chữa được lưu trữ trong hồ sơ vụ án, chứ không giao cho Ban Giám thị nhà tạm giữ, Trại Tạm giam. Ngoài ra, khi nhận được văn bản thông báo về việc từ chối hoặc thay đổi người bào chữa, người bào chữa tìm hiểu lý do sự từ chối hoặc thay đổi đó, và nếu cần thiết, họ có thể thực hiện quyền khiếu nại, trên cơ sở chứng minh được rằng, việc người bị buộc tội yêu cầu từ chối hoặc thay đổi người bào chữa do bị “ép buộc” từ người tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Hơn nữa, nếu cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án đó, không ra văn bản thông báo về việc từ chối hoặc thay đổi người bào chữa, xét về mặt pháp lý, Giấy thông báo về việc người bào chữa tham gia tố tụng trước đó, mà cơ quan tiến hành tố tụng đã cấp vẫn còn giá trị pháp lý, và người bị buộc tội vẫn có quyền thay đổi yêu cầu của mình (từ chối hoặc thay đổi người bào chữa chuyển sang không từ chối, không thay đổi người bào chữa) bất cứ lúc nào (kể cả ngay tại phiên tòa) và quyền yêu cầu thay đổi đó phải được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận, nếu trước đó, cơ quan tiến hành tố tụng đã không ban hành văn bản Thông báo về việc từ chối hoặc thay đổi người bào chữa theo yêu cầu của người bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội. 
Từ những phân tích trên, để tránh những trường hợp phải tạm dừng phiên tòa, do người bào chữa không được triệu tập bởi cho rằng, người bị buộc tội có yêu câu từ chối người bào chữa, thiết nghĩ, các cơ quan tư pháp trung ương cần lưu tâm vấn đề đặt ra để có hướng dẫn thống nhất chung về nhận thức và áp dụng trong thực tiễn.
Thứ ba, trong thời hạn kháng cáo, bị cáo bị chết, Tòa án cấp sơ thẩm phải xử lý như thế nào?
BLTTHS năm 2015 không có quy định nào về việc đình chỉ thi hành án hình sự đối với trường hợp vừa nêu. Thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp bị cáo chết sau khi Tòa án xét xử. Những trường hợp này được coi như mặc nhiên chấm dứt việc thi hành án hình sự. Trước đây, để giải quyết vướng mắc này, các cơ quan tư pháp trung ương văn bản hướng dẫn, mà theo đó, tại điểm 8.4 mục 8 Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT ngày 18/5/2006 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ Y tế hướng dẫn thi hành một số số quy định của pháp luật về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng. "… Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù vì người bị kết án đã chết".
Hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT nêu trên cũng chỉ mới đề cập đến các trường hợp mà người đã được tạm đình chỉ do bị bệnh nặng mà chết trong thời gian được tạm đình chỉ. Đối với các trường hợp chết sau khi Tòa tuyên án (trong thời hạn kháng cáo) cũng chưa có hướng dẫn nào cụ thể để các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện.
Luật Thi hành án hình sự (Luật THAHS) năm 2010, cũng không có quy định nào về đình chỉ thi hành bản án hình sự thuộc trường hợp nói trên. Tuy nhiên, trong Luật thi hành án hình sự cũng có một số điểm đề cập đến việc Tòa án ra quyết định đình chỉ thi hành án phạt tù. Ví dụ, tại khoản 5 Điều 24 Luật THAHS năm 2010, quy định “Trong thời gian được hoãn chấp hành án phạt tù mà người được hoãn chấp hành án chết thì… Tòa án đã ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù ra quyết định đình chỉ thi hành án và giải quyết các thủ tục có liên quan”.
Khoản 5 Điều 32 Luật THAHS năm 2010, quy định: “Trường hợp người được tạm đình chỉ chết, Ủy ban nhân dân xã nơi người đó cư trú… thông báo cho Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ và Tòa án đã ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận thông báo, Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án và gửi cho cơ quan quy định tại các điểm b, c, d và e khoản 1 điều này và Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù”.
Khoản 2 Điều 49 Luật THAHS hiện hành, quy định “… thông báo cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo, Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù và gửi cho…”
Như vậy, các hướng dẫn, các quy định của pháp luật chỉ đề cập đến việc chấp hành hình phạt tù, một số hình phạt khác là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung, tức là đối tượng điều chỉnh của các văn bản pháp luật này chỉ điều chỉnh đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, được đưa ra thi hành án mà không đề cập đến các trường hợp bị cáo chết sau khi Tòa tuyên bản án, nhưng chưa có hiệu lực pháp luật.
Thực tế cho thấy, trường hợp bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt, bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì bị cáo chết, do chưa có hướng dẫn cụ thể việc giải quyết thế nào nên có lẽ cũng mặc nhiên là đình chỉ vụ án. Vấn đề đặt ra, nếu vụ án có kháng cáo của bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát (trước khi bị cáo chết), thì Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào khoản 7 Điều 157, Điều 359 BLTTHS năm 2015 để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, giả sử những người kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị rồi mới có thông tin là bị cáo chết và đều rút kháng cáo, kháng nghị (rút toàn bộ) trước khi Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa thì việc xét xử phải được đình chỉ (khoản 1 Điều 348 BLTTHS năm 2015) và bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Như vậy, theo quy định thì Tòa án cấp sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án phạt tù (hoặc thi hành án hình sự); nếu Tòa án sơ thẩm biết rõ là bị cáo đã chết sau ngày bị xét xử mà vẫn ra quyết định thi hành án thì rất máy móc và đương nhiên là quyết định đó không thể thực hiện được. Ngược lại, nếu Tòa án ra quyết định đình chỉ việc thi hành án hình sự thì cũng không có căn cứ nào.
Thứ tư: Về quy định nhập, tách vụ án hình sự.
Nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra, trong giai đoạn điều tra, Điều 170 BLTTHS năm 2015, quy định như sau:
“1. Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều tra theo thẩm quyền trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Bị can phạm nhiều tội;
b) Bị can phạm tội nhiều lần;
c) Nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có.
2. Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong trường hợp cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.
3. Quyết định nhập hoặc tách vụ án phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định. Trường hợp không nhất trí với quyết định nhập hoặc tách vụ án của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ và nêu rõ lý do.”
Điều 242 BLTTHS năm 2015 có quy định việc nhập hoặc tách vụ án trong giai đoạn truy tố, cụ thể:
1. Viện kiểm sát quyết định nhập vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Bị can phạm nhiều tội;
b) Bị can phạm tội nhiều lần;
c) Nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có.
2. Viện kiểm sát quyết định tách vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây nếu xét thấy việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện và đã có quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can:
a) Bị can bỏ trốn;
b) Bị can mắc bệnh hiểm nghèo;
c) Bị can bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.”
Qua nghiên cứu quy định về việc nhập vụ án hình sự để tiến hành điều tra, người viết thấy có vướng mắc đối với trường hợp mà hành vi phạm tội, tội phạm đã được thực hiện có quan hệ với nhau hoặc hoạt động của các bị can trong các vụ án đó có quan hệ với nhau. Chẳng hạn, kết quả giải quyết đơn tố cáo của người dân, Thanh tra huyện C có cơ sở kết luận: Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, từ tháng 2/2014 đến tháng 4/2017, Châu Thị Ng. cán bộ phụ trách thương binh xã hội xã Tân Thuận Đông, huyện C đã không thực hiện việc cắt chế độ trợ cấp của các đối tượng thương binh đã bị chết để chiếm đoạt số tiền gần 437 triệu đồng. Để quyết toán được số tiền này, Ng. đã lập các danh sách tăng giảm (số người hưởng, số tiền cấp phát) không đúng để trình Chủ tịch UBND xã ký. Về phía Chủ tịch xã Tân Thuận Đông, do quá tin tưởng cấp dưới, nên đã không thực hiện việc kiểm tra, đối chiếu từ đó không phát hiện hành vi sai trái của Ng.. Hồ sơ vụ việc và kết luận thanh tra được chuyển sang Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện C để điều tra và khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Châu Thị Ng. về tội “Tham ô tài sản” theo Điều 353 BLHS năm 2015; Trần Hiếu Ph. (Chủ tịch UBND xã) tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 360 BLHS năm 2015.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, các trường hợp nhập vụ án hình sự để điều tra; nhập vụ án để truy tố thì trường hợp trên không thuộc các trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 170 và khoản 1 Điều 242 BLTTHS năm 2015. Kể cả nếu áp dụng quy định về nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra theo quy định tại Điều 117 BLTTHS năm 2003, thì cũng không thể. Như vậy, 02 vụ án này nếu không thể quyết định nhập vụ án để điều tra, thì buộc phải tiến hành khởi tố điều tra bởi 02 vụ án độc lập, từ đó, quá trình điều tra, thu thập chứng cứ cũng như việc triệu tập bị cáo; người đại diện hợp pháp người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự; người làm chứng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến phiên tòa xét xử để xét hỏi làm rõ hành vi phạm tội, trách nhiệm khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa sẽ phức tạp hơn và tốn kém nhiều hơn cho cả phía cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Từ đó theo quan điểm của tác giả, trong trường hợp này thì 02 vụ án hình sự trên phải được nhập vào để tiến hành điều tra mới đảm bảo việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được chính xác, từ đó, có hướng xử lý triệt để, toàn diện, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân. Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án như trường hợp trên, cho thấy, mỗi nơi vận dụng pháp luật mỗi kiểu, chưa có sự thống nhất, có nơi Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát cùng cấp thống nhất khởi tố và nhập vào để tiến hành điều tra, truy tố và Tòa án các địa phương vẫn tiến hành xét xử bình thường. Nhưng cũng có địa phương không nhập vụ án mà vẫn điều tra, truy tố, xét xử thành 02 vụ án hình sự độc lập.
Tuy nhiên, vướng mắc ở đây, hiện luật tố tụng hình sự lại không có quy định nào cho trường hợp trên theo hướng, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền được nhập vụ án hình sự. Để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất, người viết đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng Điều 170 và 242 BLTTHS năm 2015 theo hướng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp có thể quyết định nhập vụ án hình sự để khởi tố điều tra,  truy tố đối với những vụ án mà hành vi phạm tội, các tội phạm đã được thực hiện có quan hệ với nhau hoặc hoạt động của các bị can trong các vụ án đó có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thứ năm, tại khoản 2 Điều 276 BLTTHS năm 2015, quy định:“Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng thì Tòa án phải thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án.”. Theo quy định này, Tòa án phải thụ lý vụ án sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố. Kể từ ngày thụ lý vụ án, trong hạn 03 ngày, Chánh án phân công Thẩm phán phiên tòa giải quyết vụ án. Điều này có nghĩa là, sau khi thụ lý, hồ sơ vụ án đó vẫn chưa được chuyển giao cho Thẩm phán để nghiên cứu, do chưa có sự phân công của Chánh án. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 278 của Bộ luật này, quy định: “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”. 
Nghiên cứu nội dung các quy định vừa trích dẫn, có thể thấy sự xuất hiện “khoảng trống” về mặt thời gian sau khi Tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ án, mà “khoảng trống” này là trong hạn 03 ngày, kể từ ngày thụ lý, hồ sơ đó chưa được phân công cho Thẩm phán nào. Nhưng luật lại quy định “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa quyết định việc áp dụng…” (khoản 1 Điều 278), là không chặt chẽ và thiếu sự lô gic.
Thứ sáu, quy định về rút đơn khởi tố theo yêu cầu bị hại
Khởi tố vụ án hình sự là nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm duy trì trật tự, không phụ thuộc vào ý muốn bất kỳ chủ thể nào. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho phép người bị hại, người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết (bị hại) lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Đây là những trường hợp mà hành vi phạm tội vừa xâm phạm trật tự xã hội, vừa xâm phạm đến thể chất, sức khoẻ, danh dự của bị hại. Khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết”.
      Mặt khác, tại khoản 2 Điều luật này, nhà làm luật cũng cho phép người đã yêu cầu khởi tố được quyền rút đơn yêu cầu khởi tố, cụ thể: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. 
Hiểu như thế nào là rút yêu cầu trái với ý muốn? Thực tế hiện nay, không ít các trường hợp xảy ra hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác; cưỡng dâm; làm nhục người khác,… Sau một thời gian dài nhận đơn yêu cầu khởi tố của bị hại, cơ quan điều tra nhiều lần “vận động” bị hại rút đơn yêu cầu, vì cho rằng hành vi của người bị tố cáo không cấu thành tội phạm. Điều đáng nói ở đây, dù bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu, nhưng cán bộ điều tra vẫn cứ cho gọi bị hại đến để giải thích theo hướng thuyết phục hòa giải, thỏa thuận bồi thường về dân sự, mà lẽ ra, sau quá trình kiểm tra, xác minh cho thấy nếu chưa đủ cơ sở để khởi tố thì ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; Thông báo cho người yêu cầu biết việc không khởi tố vụ án, đó là việc cần nên làm và phải làm, chứ không nên nhiều lần nhiều lượt “tác động” đến tâm lý của bị hại nhằm thuyết phục họ rút đơn.
Về phía bị hại, họ thật sự không muốn rút đơn, nhưng do tính chất của công việc không cho phép họ được vắng mặt nhiều lần để có mặt theo yêu cầu của cơ quan điều tra, dù rằng sự vắng mặt đó là có lý do, hơn nữa, họ còn phải mất nhiều chi phí đi lại, mất quá nhiều thời gian nhưng sự việc gần như không tiến triển theo chiều hướng có lợi cho người bị hại. Ở tình thế đó, rõ ràng phía đương sự không  ép buộc, không cưỡng bức; phía cơ quan tiến hành tố tụng cũng không o ép bị hại, họ chỉ vận động, giải thích, nhưng với bị hại họ nhận thức được rằng, giải pháp tốt nhất phải chấp nhận phương án rút đơn yêu cầu.  Vậy, trường hợp này có coi là trái với ý muốn của người đã yêu cầu khởi tố không? Thiết nghĩ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần quy định rõ về vấn đề mà người viết đề cập, bởi đó không phải là trường hợp cá biệt, dễ gây ra tâm lý hoài nghi đối với cơ quan tiến hành tố tụng. 
Theo quy định, việc rút yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, không bị giới hạn về thời điểm rút đơn yêu cầu, kể cả ngay tại phiên tòa xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, quy định này còn bộc lộ một số vướng mắc sau:
Một là, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại  khoản 1 Điều 282 BLTTHS năm 2015. Mà theo đó:
+Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức;
 +Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
+Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
+Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
+Tội phạm đã được đại xá;
+Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
Vấn đề đặt ra, nếu bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử sẽ giải quyết ra sao, khi mà khoản 3 Điểu 326 BLTTHS năm 2015 quy định, các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án chỉ bao gồm:
a) Vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;
b) Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp;
c) Có hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng;
d) Hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;
đ) Bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không;
e) Án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa;
g) Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử;
h) Kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm.”
Rõ ràng, luật không quy định cho phép HĐXX có quyền đình chỉ xét xử vụ án đối với trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa, mặc dù, việc rút yêu cầu đối với họ là hoàn toàn tự nguyện, không bị bất kỳ áp lực nào. 
Hai là, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, theo quy định tại Điều 346 BLTTHS năm 2015, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa có thẩm quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Lý do để đình chỉ xét xử phúc thẩm, theo quy định tại khoản 1 Điều 348 của Bộ luật này:
+Người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo;
+ Viện kiểm sát đã rút toàn bộ kháng nghị.
+Người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trước khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút
Như vậy, BLTTHS năm 2015 không quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thẩm quyền đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, khi mà người yêu cầu khởi tố tự nguyện rút yêu cầu khởi tố. Do đó, nếu trong giai đoạn này bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố, thì  ai có thẩm quyền đình chỉ vụ án và căn cứ ra quyết định đình chỉ là gì?. Trong khi đó, Điều 359 BLTTHS năm 2015 quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm có thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án trong hai trường hợp:
+Trường hợp thứ nhất, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án khi: không có sự việc phạm tội và hành vi không cấu thành tội phạm (khoản 1 và khoản 2 Điều 157 BLTTHS năm 2015).
+Trường hợp thứ hai, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án khi: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác (các khoản 3,4,5,6 và 7 Điều 157 BLTTHS năm 2015).
Rõ ràng, BLTTHS năm 2015 cũng không quy định bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố là căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Do đó, nếu tại phiên tòa bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sẽ giải quyết như thế nào khi BLTTHS năm 2015 không quy định đây là một trong các trường hợp hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng không thể căn cứ vào khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 để đình chỉ vụ án, vì hiện đang tồn tại bản án sơ thẩm xét xử về hành vi phạm tội theo đơn yêu cầu khởi tố vụ án, nên khi bị hại hoặc đại diện người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì phải hủy bản án sơ thẩm này sau đó mới có thể quyết định đình chỉ vụ án. Từ phân tích trên cho thấy, mặc dù BLTTHS năm 2015 không giới hạn thời điểm rút đơn yêu cầu khởi tố của bị hại, song, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên tòa sơ thẩm và trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, đang là vướng mắc trong thực tiễn xét xử hiện nay.
 
Ths.LS Lê Văn Sua
Văn phòng luật sư Lê Sua



 
 
[1] Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.