Bàn về quy định giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

24/07/2017
Trước hết, đối với đương sự, việc xét xử theo thủ tục rút gọn (TTRG) sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức cũng như giảm bớt những thiệt hại, phiền phức, nhất là đối với người thắng kiện vì đáng lẽ ra họ không phải gánh chịu những thiệt hại, phiền phức này. Mặt khác, áp dụng TTRG Tòa án sẽ giảm thời gian giải quyết vụ án nhưng vẫn đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, quyền lợi của các bên được tôn trọng, giảm công việc của Thẩm phán, Thư ký Tòa án đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án. Đồng thời với việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp; khiếu kiện, TTRG góp phần làm giảm đáng kể số lượng án ngày càng gia tăng trong tình hình hiện nay.
TTRG trong tố tụng dân sự (TTDS) được Tòa án áp dụng nếu đủ điều kiện do pháp luật quy định, để giải quyết trong một thời hạn ngắn, do một thẩm phán tiến hành với trình tự đơn giản hơn so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động theo quy định chung thủ tục tố tụng thông thường. Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 316 BLTTDS năm 2015, áp dụng các quy định tại Chương XVIII của BLTTDS năm 2015để giải quyết vụ án theo TTRG, trường hợp, nếu Chương XVIII không có quy định thì áp dụng các quy định khác của BLTTDS để giải quyết. Ngoài ra, nếu các văn bản pháp luật khác quy định tranh chấp dân sự được giải quyết theo TTRG thì việc giải quyết tranh chấp đó được thực hiện theo TTRG quy định trong BLTTDS năm 2015.
1. Điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015, Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn khi có đủ các điều kiện sau đây:
“a) Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
b) Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
c) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.”
Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 316 BLTTDS năm 2015, đối với các vụ án mà pháp luật có quy định về các điều kiện khác thì các vụ án được giải quyết theo TTRG cần phải đáp ứng cả các điều kiện này. Ví dụ, theo quy định khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010: “Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng.”
Như vậy, khi và chỉ khi vụ án thỏa mãn đầy đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 317 BLDS năm 2015, thì Tòa án giải quyết theo TTRG. Tuy nhiên qua nghiên cứu quy định điều kiện áp dụng TTRG khi vụ án có tình tiết đơn giản, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ. Tác giả thấy rằng, tiêu chí nào để thỏa mãn điều kiện vụ án có tình tiết đơn giản? Hoặc đối với điều kiện đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ, quy định này tuy khá đơn giản, nhưng thực tế cũng đang còn có vướng mắc. Chẳng hạn, trong vụ án tranh chấp cầm cố quyền sử dụng đất, mà theo đó, bị đơn chỉ đồng ý trả khoản tiền đã nhận cầm cố thửa đất tương đương 200 triệu đồng, đồng thời phản đối yêu cầu của nguyên đơn việc quy đổi số tiền trên tương đương với 52 chỉ vàng 24K, vì cho rằng đối tượng  giao dịch trong hợp đồng này là quyền sử dụng đất được cầm cố có thời hạn và số tiền trị giá 52 chỉ vàng tại thời điểm giao dịch, chứ không phải là 52 chỉ vàng 24K. Điều này sẽ dẫn tới hai cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau. 
Cách hiểu thứ nhất: Vì bị đơn đã phản đối một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên không thỏa mãn điều kiện “đương sự thừa nhận nghĩa vụ”, do đó, trường hợp này không áp dụng TTRG để giải quyết vụ án mà giải quyết bằng thủ tục thông thường. 
Cách hiểu thứ hai: Trường hợp này vẫn áp dụng được TTRG, vì bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ trả số tiền đã nhận 200 triệu đồng khi cầm cố quyền sử dụng đất. Bị đơn chỉ không đồng ý đối với yêu cầu quy đổi thành 52 chỉ vàng 24K mà nguyên đơn đưa ra. Nghĩa là, bị đơn không phủ nhận nghĩa vụ của mình đối với nguyên đơn. 
 Đối với quy định, vụ án mà các đương sự thoả thuận lựa chọn giải quyết theo TTRG. Tác giả thấy rằng, xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện, tự định đoạt cam kết thoả thuận trong giao kết dân sự thì đương nhiên cũng được tự do thoả thuận giải quyết các tranh chấp. Họ có quyền lựa chọn trình tự giải quyết tranh chấp của mình theo TTRG. Tuy nhiên, để tránh việc lạm dụng thoả thuận giải quyết theo TTRG nhằm để không thực hiện nghĩa vụ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người thứ ba đồng thời để đảm bảo cho Toà án giải quyết chính xác, đúng pháp luật, dù các bên đương sự có quyền thoả thuận giải quyết theo TTRG, nhưng quyền quyết định vụ án đó có được tiến hành theo TTRG theo yêu cầu của các bên đương sự hay không, vẫn thuộc về Tòa án có thẩm quyền.
Song song đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng cần có quy định mang  tính bắt buộc đi kèm chế tài xử lý trách nhiệm đối với Thẩm phán khi có đủ điều kiện nhưng không áp dụng TTRG giải quyết vụ án. Để mục đích tốt đẹp của quy định giải quyết các vụ án theo TTRG được áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn xét xử, tác giả đề xuất theo hướng coi việc xét xử theo TTRG là một trong những tiêu chí xét thi đua khen thưởng đối với Thẩm phán, Tòa án nhân dân. 
Bên cạnh đó, đối với điều kiện nếu tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án thì không cần việc Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ. Chính vì vậy, cụm từ “và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ” trong nội dung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2017 là không cần thiết.  Hơn nữa, nếu như đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ thì việc quy định thêm “tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ” là chưa phù hợp vì theo Điều 92 BLTTDS năm 2015, quy định về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh
1. Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận;
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện.
Bởi theo quy định này, sự thừa nhận của đương sự cũng là chứng cứ và là yếu tố cơ bản để giải quyết vụ án, thuộc trường hợp những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. 
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, hiệu quả của thủ tục TTRG, khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015, quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo TTRG, nếu xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Tình tiết mới đó là:
i) Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định;
ii) Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất về giá;
iii) Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
iv) Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
v) Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
vi) Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp, trừ trường hợp cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong trường hợp chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Qua nghiên cứu tác giả thấy rằng, một số biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu được áp dụng cũng không làm ảnh hưởng đến thời hạn, kết quả giải quyết vụ án. Cụ thể, một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như: Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động; cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ; cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình (khoản 5, 13, 14 Điều 114 BLTTDS năm 2015) thì không làm ảnh hưởng đáng kể đến thời gian thụ lý, giải quyết vụ án, vì vậy, nên chăng, trong một số trường hợp, nếu có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì vụ án vẫn được xét xử theo TTRG. Điều này, tuy không phù hợp với quy định tại điểm c khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015, nhưng kết quả giải quyết vụ án vẫn bảo đảm tính chính xác, quyền lợi hợp pháp của các bên được tôn trọng thì tại sao Luật lại không cho phép áp dụng TTRG  mà phải chuyển sang thủ tục thông thường?
2. Thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo TTRG tại Tòa án cấp sơ thẩm
2.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo TTRG
BLTTDS năm 2015 không có quy định riêng về khởi kiện vụ án dân sự và thụ lý vụ án dân sự theo TTRG. Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 2 Điều 361 BLTTDS năm 2015, việc khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo TTRG được thực hiện như đối với vụ án dân sự giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Theo đó, việc khởi kiện vụ án dân sự theo TTRG sẽ thực hiện theo quy định từ Điều 186 đến Điều 194 BLTTDS năm 2015. Việc thụ lý vụ án dân sự theo TTRG sẽ thực hiện theo quy định từ Điều 191 đến Điều 196 BLTTDS năm 2015.
2.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG
Để chuẩn bị các điều kiện để tiến hành, tham gia xét xử vụ án theo TTRG thì việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG của Tòa án cũng phải thực hiện trong khoảng thời gian nhất định. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG là khoảng thời gian xác định từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG. Theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS năm 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG là 01 tháng, kể từ ngày tòa án thụ lý vụ án.  Thời hạn này tuy ngắn, nhưng vẫn  đảm bảo cho Tòa án, các đương sự có đủ thời gian để tiến hành các hoạt động cần thiết cho việc Tòa án ra phán quyết chính xác và đúng pháp luật.
Trong khoảng thời gian này, Thẩm phán cần xác định xem vụ án có đáp ứng đầy đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG không, cụ thể:
– Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự rõ ràng không, bị đơn có thừa nhận nghĩa vụ không, nếu bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì sự thừa nhận của bị đơn có xuất phát từ ý chí tự nguyện không, có vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội không?
– Chứng cứ vụ án đã đầy đủ chưa, các đương sự có thống nhất về tài liệu chứng cứ của vụ án không, có cần tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ không?
–Địa chỉ, nơi cư trú, trụ sở của các đương sự có rõ ràng không, có cần xác minh, thẩm tra lại không?
– Xác định vụ án có yếu tố nước ngoài không, có cần phải thực hiện việc ủy thác tư pháp không? Nếu có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài thì xác định xem các đương sự có thỏa thuận về việc áp dụng TTRG không, có thỏa thuận về xử lý tài sản không?
– Có cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không?
– Bị đơn hoặc người liên quan có đưa ra yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập không?
Nếu vụ án đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 317 BL TTDS năm 2015, thẩm phán ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Vấn đề đặt ra là, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG, thẩm phán có thể ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hoặc Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án không? Thực ra, BLTTDS năm 2015 không có điều khoản nào quy định vấn đề này, tuy nhiên, căn cứ Điều 361 BLTTDS năm 2015, thẩm phán có thể ra Quyết định đình chỉ hoặc Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo TTRG theo quy định tại Điều 214 và Điều 217 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, để tạo sự thống nhất về nhận thức, tránh kéo dài việc giải quyết vụ án, thiêt nghĩ, Tòa án nhân dân tối cao và liên ngành tư pháp trung ương cần có hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
2.3 Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG
Khoản 2 Điều 318 BLTTDS năm 2015, quy định Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, gồm có những nội dung chính sau:
– Ngày, tháng, năm ra quyết định;
– Tên Tòa án ra quyết định;
– Vụ án được đưa ra xét xử theo TTRG;
– Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của nguyên đơn, bị đơn hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
– Họ, tên Thẩm phán, Thư ký tòa án; họ, tên Thẩm phán dự khuyết (nếu có);
– Họ, tên Kiểm sát viên; họ, tên Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có);
– Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
– Xét xử công khai hoặc xét xử kín;
– Họ, tên những người được triệu tập tham gia phiên tòa.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG phải được gửi ngay cho đương sự để đương sự thực hiện các quyền tố tụng của mình như quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên; quyền khiếu nại đối với Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và quyền tham gia phiên tòa. Quyết định này cũng được gửi ngay cho Viện kiểm sát để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chuẩn bị tham gia phiên tòa. Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2[1] Điều 21 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp và trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án.
Để bảo đảm chắc chắn rằng Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG là chính xác, đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định về giải quyết vụ án theo TTRG, Điều 329 BLTTDS năm 2015 quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết định sau đây:
– Giữ nguyên Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, nếu vụ án đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015;
– Hủy Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường nếu vụ án không đáp ứng đầy đủ các các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 hoặc xuất hiện một trong các căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng và phải được gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp.
2.4 Phiên tòa sơ thẩm theo TTRG
Về nguyên tắc chung, để các đương sự có thể bảo vệ được tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như việcTòa án được ra phán quyết vừa thấu lý vừa đạt tình, bảo đảm tính đúng đắn và chính xác của Bản án, thì Tòa án phải mở một phiên tòa công khai với sự có mặt của tất cả những người tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, các đương sự, những người tham gia tố tụng khác được thực hiện quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của mình một cách trực tiếp và bằng lời nói. Các đương sự đều phải được trực tiếp trình bày các yêu cầu, đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng đối với các vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn, thì đây là vụ án đơn giản, rõ ràng, Thẩm phán chỉ thẩm tra lại sự việc, chứng cứ, tài liệu và áp dụng pháp luật để giải quyết nên việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của các đương sự được thực hiện ở mức độ hạn chế hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Các đương sự, Kiểm sát viên phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo TTRG, trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Đương sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.
Khác với thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục thông thường, khoản 3 Điều 320 BLTTDS năm 2015 quy định, Thẩm phán tiến hành hòa giải ngay trong phiên tòa sơ thẩm chứ không bắt buộc phải hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Sau khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán tiến hành hòa giải, trừ trường hợp không được hòa giải theo quy định tại Điều 206 hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 BLTTDS năm 2015. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 BLTTDS năm 2015. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử.
Nhằm bảo đảm cho các bên đương sự trình bày, giải thích hay đối chiếu xem có mâu thuẫn về tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa sơ thẩm, khoản 2 và khoản 3 Điều 320 BLTTDS năm 2015 quy định, thủ tục khai mạc phiên tòa, trình bày, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án được thực hiện như đối với vụ án giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Nhưng đối với vụ án đơn giản, rõ ràng, chứng cứ đầy đủ, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ,… thì việc xét xử tại phiên tòa thực chất là phiên đối chất để kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, trước khi Thẩm phán ra quyết định cuối cùng việc giải quyết tranbh chấp. Do đó, việc tranh luận, đối đáp cần thực hiện đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.
Ngoài ra, trường hợp tại phiên tòa phát sinh tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015, mà tình tiết mới đó làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG thì Thẩm phán xem xét, ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.
2.5 Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm theo TTRG
Điều 17 BLTTDS năm 2015 quy định nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được áp dụng cho tất cả các vụ việc dân sự mà không có bất kỳ một ngoại lệ nào nhằm bảo đảm quyền của các đương sự cũng như đảm bảo tính đúng đắn, hợp pháp trong các phán quyết của tòa án trước khi đưa ra thi hành. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”. Chính vì lẽ đó, Điều 321 BLTTDS năm 2015 quy định bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án theo TTRG có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm rút gọn. Bản án, quyết định theo TTRG đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án hoặc khi phát hiện tình tiết mới theo quy định tại Chương XX, Chương XXI của BLTTDS năm 2015.
3. Giải quyết vụ án dân sự theo TTRG tại Tòa án cấp phúc thẩm
3.1 Kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định theo TTRG
Theo quy định tại khoản 2 Điều 316 BLTTDS năm 2015, việc kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định theo TTRG được thực hiện như đối với thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, linh hoạt của việc giải quyết vụ án theo thủ tục TTRG thì thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG ngắn hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Cụ thể, thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG là 07 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết; thời hạn kháng nghị đối với bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định.
3.2 Thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo TTRG
3.2.1. Thụ lý xét xử phúc thẩm theo TTRG
Theo quy định tại khoản 2 Điều 316 BLTTDS năm 2015, việc thụ lý xét xử phúc thẩm theo TTRG được thực hiện như đối với thủ tục thông thường. Theo đó, ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, tòa án cấp phúc thẩm sẽ vào sổ thụ lý vụ án. Để bảo đảm cho đương sự chuẩn bị phương án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và tham gia phiên tòa cũng như để bảo đảm cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và thông báo trên cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm phân công Thẩm phán giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn.
3.2.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo TTRG:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 323 BLTTDS năm 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG là 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo TTRG ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục thông thường. thời hạn chuẩn bị mở phiên tòa phúc thẩm theo TTRG là 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (khoản 1 Điều 324 BLTTDS năm 2015).
3.2.3. Nghiên cứu hồ sơ vụ án:
Thẩm phán phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án, bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị và các chứng cứ, tài liệu kèm theo. Cụ thể, Thẩm phán phải kiểm tra lại những vấn đề như nội dung của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; thủ tục tố tụng mà Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành có đúng không? Vụ án có đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG hay không? Có xuất hiện các tình tiết mới để chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường không? Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có hợp pháp và có căn cứ không? Trường hợp thiếu chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ án theo thủ tục TTRG thì yêu cầu đương sự bổ sung. Tuy nhiên, việc bổ sung, chứng cứ mới ở phúc thẩm phải đáp ứng các điều kiện theo quy định Điều 287[2] BLTTDS năm 2015.
3.2.4. Ra các quyết định trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn ra một trong các quyết định sau đây:
-Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án theo quy định tại Điều 288 BLTTDS năm 2015. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn.
-Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án theo quy định Điều 289 BLTTDS năm 2015;
- Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm có nội dung quy định tại khoản 1 Điều 290 BLTTDS năm 2015. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi ngay cho những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị để những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị thực hiện các quyền tố tụng của mình. Quyết định này cũng được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp để chuẩn bị tham gia phiên tòa và thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
-Quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường nếu xuất hiện tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 chưa quy định rõ việc chuyển vụ án sang thủ tục thông thường là thủ tục sơ thẩm hay thủ tục phúc thẩm.
Việc chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường tại Tòa án cấp phúc thẩm, khoản 4 Điều 323 BLTTDS năm 2015, quy định: “Trường hợp xuất hiện tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 của Bộ luật này thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính theo quy định tại khoản 4 Điều 317 của Bộ luật này.”, nhưng Luật lại không quy định với trường hợp, nếu xuất hiện tình tiết tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015, trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Thẩm phán ban hành quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường, điều đó có nghĩa, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải mở phiên tòa để xem xét và quyết định hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại từ đầu theo thủ tục thông thường, theo quy định tại điểm c khoản 6 Điều 324 BLTTDS năm 2015. Do vậy, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan tư pháp trung ương cần có hướng dẫn nhằm thống nhất nhận thức áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 323 BLTTDS năm 2015.
3.2.5. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu:
Ngay sau khi Thẩm phán ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm, thì Tòa án chuyển ngay Quyết định này và hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng cấp là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn đó, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ án cho tòa án.
3.3 Phiên tòa phúc thẩm theo TTRG
Tương tự như ở phiên tòa sơ thẩm theo TTRG, phiên tòa phúc thẩm theo TTRG cũng được tiến hành theo một trình tự đơn giản, nhanh chóng hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Theo đó, các đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm. Đương sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp đương sự không kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.
Về thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm cũng được tiến hành đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, cụ thể:
– Thẩm phán trình bày tóm tắt nội dung bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung của kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có).
– Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày, đương sự bổ sung ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án.
– Sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm.
Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
3.4 Quyền hạn của Thẩm phán giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn
Theo quy định tại khoản 6 Điều 324 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán khi giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn có các quyền hạn sau đây:
- Giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm: Thẩm phán không chấp nhận kháng cáo hoặc kháng nghị trong trường hợp kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ và Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng.
– Sửa bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm: Nếu qua việc xét xử phúc thẩm, Thẩm phán thấy Toà án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án theo TTRG không đúng pháp luật thì Thẩm phán có thể sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm. Theo quy định tại Điều 309 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm nếu Toà án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong những trường hợp sau đây:
+ Việc chứng minh và xác định chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật;
+ Việc chứng minh và xác định chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên toà phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.
Với những chứng cứ được xem xét ở giai đoạn sơ thẩm và chứng cứ được bổ sung ở phúc thẩm thì Thẩm phán nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định không đúng pháp luật. Nói cách khác, Tòa án cấp sơ thẩm đã có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật nội dung khi giải quyết vụ án. Đây là các sai lầm trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung để áp dụng như không áp dụng điều luật trong trường hợp cần áp dụng, áp dụng văn bản pháp luật đã hết hiệu lực hoặc áp dụng không đúng các điều luật, không đúng nội dung quy định của điều luật. Chẳng hạn như, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không bảo đảm cơ sở pháp lý; tuyên mức bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của nguyên đơn vượt mức thực tế mà thiếu cơ sở chứng minh;…
– Hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo TTRG hoặc theo thủ tục thông thường nếu không còn đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG
Theo quy định tại khoản 1 Điều 316, khoản 6 Điều 324 và Điều 310 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo TTRG trong các trường hợp sau đây:
+Việc chứng minh và xác định chứng cứ không theo đúng quy định của pháp luật hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên toà phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được;
+Thẩm phán thuộc một trong các trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại các điều 52, 53 BLTTDS năm 2015 hoặc có vi nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đó là những vi phạm về thủ tục tố tụng phải đến mức nghiêm trọng, tức là làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan, toàn diện, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Còn tuy có những vi phạm về thủ tục tố tụng không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự,  bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng về nội dung thì không coi là căn cứ để Thẩm phán hủy bản án, quyết định và xét xử lại.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 6 Điều 324 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục thông thường nếu vụ án không còn đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG.
– Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án
Theo quy định tại khoản 1 Điều 316, khoản 6 Điều 324 và Điều 311 BL TTDS năm 2015, Thẩm phán huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 217[3]; điểm b[4] khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015.
– Đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 316, khoản 6 Điều 324 và Điều 312 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm nếu vụ án có một trong các căn cứ quy định tại Điều 312 BLTTDS năm 2015.
 
Phạm Thị Hồng Đào - VP Luật sư Thạnh Hưng 

[1] Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này.
[2] Điều 287. Cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
1. Đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ sau đây trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
a) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng;
b) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.
2. Thủ tục giao nộp tài liệu, chứng cứ được thực hiện theo quy định tại Điều 96 của Bộ luật này.
[3] Điều 217. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;
b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;
d) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
đ) Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết;
g) Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý;
h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, không đề nghị xét xử vắng mặt và trong vụ án đó có bị đơn yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì giải quyết như sau:
a) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án;
b) Bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; bị đơn trở thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn;
c) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cần độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người nào bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
[4] Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không. Nếu Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.