Vai trò của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại theo Luật TTTM năm 2010 và kiến nghị

06/06/2017
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, việc xảy ra các tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi. Hiện có rất nhiều phương pháp giải quyết tranh chấp nhưng phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang được xem trọng trên trường quốc tế. Việc giải quyết các tranh chấp ở nước ta hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) là tổ chức phi chính phủ được thành lập bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế.
Thời gian gần đây, các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là đội ngũ doanh nghiệp đã nhìn nhận và đánh giá tích cực hơn về vai trò của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trong kinh doanh, nhiều khi thời gian là yếu tố được quy ra tiền bạc. Ưu thế về tốc độ giải quyết tranh chấp, rút ngắn sự lãng phí thời gian công sức theo đuổi kiện tụng cho doanh nghiệp không thuộc về Tòa án. Với đặc điểm của cơ chế tố tụng hiện nay, một vụ việc tranh chấp kinh doanh thương mại nếu trải qua đủ các trình tự, thủ tục pháp lý sơ thẩm, phúc thẩm, thì về mặt quy định thời hạn giải quyết tại Tòa án có thể từ 7 - 12 tháng, nhưng trên thực tế, có thể mất 1 - 3 năm. Trong khi đó, nếu cộng tất cả các thời hạn theo các trình tự, thủ tục liên quan, thì thời hạn giải quyết một vụ tranh chấp của trọng tài thương mại chỉ mất khoảng hơn 120 ngày.
Với những doanh nghiệp đã từng trải qua quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, từ giai đoạn xét xử sơ thẩm đến phúc thẩm, có khi đến giám đốc thẩm hủy án để Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại từ đầu, mới thấu hiểu đến giá trị của việc phán quyết chung thẩm, một lần nhanh gọn và có hiệu lực áp dụng ngay của trọng tài thương mại. Số lượng vụ việc tranh chấp mà các Trung tâm trọng tài thụ lý giải quyết đã tăng lên 30% so với trước đây. Theo số liệu thống kê, trong 4 năm (từ năm 2011 đến 31/12/2015) các trung tâm trọng tài đã ban hành 1.831 phán quyết trọng tài, riêng trong năm 2015, các trung tâm trọng tài đã giải quyết được 1.255 vụ tăng 389 vụ việc so với năm 2014. Trong đó, VIAC đã thụ lý, giải quyết 226 vụ, trung bình gần 60 vụ/năm; Trung tâm Trọng tài thương mại thành phố Hồ Chí Minh (TRACENT) thụ lý, giải quyết 291 vụ, trung bình hơn 70 vụ/năm[1]. Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài thương mại tại Việt Nam vẫn chưa thật sự khởi sắc khi phương thức này chỉ giải quyết khoảng 11% tổng số tranh chấp thương mại. Số vụ tranh chấp mà VIAC thụ lý trong năm 2015, vẫn rất khiêm tốn nếu so với 188 vụ mà Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) giải quyết hay như Uỷ ban trọng tài Bắc Kinh là 1.500 vụ. Trong khi đó, số lượng các vụ án hàng năm phải giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án các cấp đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng số lượng vụ án tồn đọng, làm ảnh hưởng đến hoạt động dịch vụ, kinh doanh của doanh nghiệp. Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM) năm 2010 đã ra đời và có nhiều quy định mang tính “hỗ trợ” của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
1. Sự cần thiết phải có sự “hỗ trợ” của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương mại
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: Trọng tài thương mại (TTTM) là cơ quan tài phán phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm, do đó, trọng tài không mang trong mình quyền lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của Nhà nước, chỉ đại diện cho ý chí của các bên tranh chấp. Điều này đã đặt ra cho TTTM những khó khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác, thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như việc thi hành phán quyết trọng tài. Khi những khó khăn này vượt ra khỏi sự kiểm soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác. Vì vậy, sự hỗ trợ của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tránh bế tắc cho hoạt động trọng tài, để trọng tài có thể giải quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng giao phó. Ví dụ, trong quá trình thành lập Hội đồng trọng tài (HĐTT), có trường hợp bị đơn không chọn được Trọng tài viên cho mình, hay các bên không chọn được Trọng tài viên duy nhất; nếu có một bên tranh chấp tẩu tán tài sản, làm thất thoát khối tài sản của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với bên kia thì trọng tài cũng không thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các hành vi đó,... Từ đó đặt ra vấn đề cần phải có sự “hỗ trợ” của Tòa án cho hoạt động của trọng tài để “lắp” khoảng trống này của trọng tài.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp
Các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn kinh doanh ở nước ta ngày càng nhiều hơn và đa dạng hơn về chủng loại, phức tạp về tính chất. Điều này đòi hỏi phải có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu khác nhau của chủ thể kinh doanh. Ở nước ta, TTTM đã có lịch sử tồn tại khá lâu dài, tuy nhiên, chưa phải là hình thức được các nhà kinh doanh ưa chuộng, căn bản là do thiếu sự hỗ trợ từ phía các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng. Chính sự hỗ trợ đó sẽ làm cho hoạt động trọng tài được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, đồng thời không làm mất đi ưu thế của hình thức giải quyết tranh chấp tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các đương sự.
Thứ ba, từ tình trạng quá nhiều án tồn đọng tại các Tòa án
Cùng với sự phát triển sôi động của các quan hệ kinh tế, các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại buộc phải đưa đến Tòa kinh tế ngày càng nhiều, đã tạo ra áp lực tăng, gây ra tình trạng “quá tải”, án tồn đọng với số lượng khá lớn, đặc biệt là ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng tài
Nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản lý hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của trọng tài. 
Như vậy, mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và TTTM là mối quan hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có mối quan hệ này, mà TTTM tuy là tổ chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động một cách có hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của TTTM là một sự tiếp sức cho TTTM, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc đa dạng hoá phương thức giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ của Nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao dịch thương mại.  
          2. Vai trò của Tòa án đối với hoạt động của TTTM thông qua các quy định của pháp luật.
2.1. Quy định về việc xác định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi Trọng tài viên
Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật TTTM năm 2010, việc thành lập HĐTT để giải quyết tranh chấp hoàn toàn là quyền của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn thành lập HĐTT có thể bao gồm một hay nhiều Trọng tài viên tùy theo sự thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không có sự thỏa thuận về số lượng Trọng tài viên thì HĐTT bao gồm ba Trọng tài viên.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4 Điều 41 Luật TTTM năm 2010, đối với việc thành lập HĐTT vụ việc, nếu bị đơn hoặc các bị đơn không chọn được Trọng tài viên, hoặc các Trọng tài viên không bầu được một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch HĐTT, hoặc các bên không chọn được Trọng tài viên duy nhất (trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết) thì Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc nơi có trụ sở theo yêu cầu của một hoặc các bên có quyền đưa ra quyết định chỉ định Trọng tài viên, chỉ định Chủ tịch HĐTT trong các trường hợp trên.
Tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM năm 2010, quy định: “Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc thay đổi Trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên, của một hoặc các bên tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên”. Như vậy, đối với trường hợp cần phải thay đổi Trọng tài viên theo quy định của pháp luật (trong vụ tranh chấp do HĐTT vụ việc giải quyết), nếu các thành viên còn lại của HĐTT không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì Tòa án có thẩm quyền (Tòa án nơi HĐTT giải quyết tranh chấp) có thể hỗ trợ việc quyết định thay đổi Trọng tài viên này. Cụ thể là Chánh án Tòa án có thẩm quyền sẽ phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên.
Bên cạnh đó, tại khoản 4 Điều 43 Luật TTTM năm 2010 còn quy định: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. Theo đó, Tòa án cũng có thể “hỗ trợ” trong trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Như vậy, các quy định trên của Luật TTTM năm 2010 đã giúp tháo gỡ được các “bế tắc” trong tố tụng trọng tài. Bởi lẽ, vụ tranh chấp đã được các bên thỏa thuận giải quyết theo thủ tục trọng tài thì Tòa án không thụ lý giải quyết. Việc không thành lập được HĐTT hoặc không chọn được Trọng tài viên duy nhất gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp. Vì thế, quyền lợi của các bên tranh chấp khó được đảm bảo, đặc biệt là bên có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Do đó, sự “hỗ trợ” của Tòa án đối với TTTM trong việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên là điều rất cần thiết. Sự can thiệp bởi ý chí của xét xử - nhân danh Nhà nước, vào hoạt động trọng tài bằng việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đã làm cho trọng tài có thể thực hiện được nhiệm vụ mà các bên tranh chấp giao phó, giúp các bên tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh.
2.2. Quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Các tranh chấp xảy ra với nội dung phức tạp, tính chất rất căng thẳng và mức độ khá gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các đương sự. Do đó, trong quá trình HĐTT giải quyết vụ tranh chấp, nếu thấy rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn gửi đến Tòa án để yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời thích hợp để bảo vệ tài sản đang bị tranh chấp theo quy định tại Điều 48 Luật TTTM năm 2010:
 “1. Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
2. Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”.
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của HĐTT được quy định tại khoản 2[2] Điều 49 Luật TTTM năm 2010; các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án thực hiện được quy định tại khoản 1 Điều 53 Luật TTTM năm 2010: “Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện được quy định tại Điều 114[3] Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 53 Luật TTTM năm 2010. Điều này cho thấy pháp luật cũng có sự can thiệp đáng kể bằng sức mạnh của cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt động của TTTM, giúp cho trọng tài hoạt động có hiệu quả hơn và bảo vệ tốt quyền lợi của các đương sự tham gia vụ kiện. 
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 49 Luật TTTM năm 2010: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối” và khoản 5 Điều 53 Luật này có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu HĐTT đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối và ngược lại, trừ trường hợp những nội dung không thuộc thẩm quyền của HĐTT. Từ đó có thể thấy, Tòa án đóng vai trò “hỗ trợ” rất lớn trong trường hợp các bên đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của HĐTT. 
Từ quy định trên có thể thấy, Luật TTTM năm 2010 đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa HĐTT và Tòa án nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc pháp luật cho phép các bên có quyền yêu cầu HĐTT hoặc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của mình trong vụ việc giải quyết tranh chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi khác nhằm làm giảm giá trị của tài sản tranh chấp. Sự “hỗ trợ” của Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc Tòa án thực hiện quyền tư pháp  để áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà HĐTT tuy cũng có thể thực hiện nhưng không thể thực hiện triệt để. Hơn nữa, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của HĐTT. 
Như vậy có thể khẳng định, việc Luật TTTM  năm 2010 quy định có sự tham gia của Tòa án trong việc “hỗ trợ” TTTM áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là một quy định hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Nó không chỉ đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài có hiệu quả mà còn làm cho phán quyết của trọng tài có tính khả thi, đảm bảo uy tín và hiệu quả của hoạt động trọng tài.
2.3. Quy định về hủy phán quyết của trọng tài
Một yếu tố đảm bảo cho tính khả thi trong phán quyết của trọng tài là các quy định về hủy quyết định trọng tài phải hợp lý và chặt chẽ, tránh trường hợp quyết định trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu hủy một cách tùy tiện. Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, không ai có thể đảm bảo rằng quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện. Để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, khoản 1 Điều 44 Luật TTTM năm 2010, quy định: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của HĐTT, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của HĐTT. Bên khiếu nại phải đồng thời thông báo việc khiếu nại cho HĐTT.
Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 quy định: “Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”. Như vậy, Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có thẩm quyền xem xét lại quyết định trọng tài. Khi nhận đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài của một bên, Tòa án không xét xử lại mà chỉ đối chiếu vào các căn cứ phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010, bao gồm:
a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng quyết định mà trọng tài đã tuyên thuộc một trong các trường hợp trên thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy phán quyết của trọng tài. Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với căn cứ “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Với căn cứ này, tại điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại (viết tắc Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP). Mà theo đó: “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam.
Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật và nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài.
Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà HĐTT đã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba.
Ví dụ: Các bên đã tự nguyện thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp và thỏa thuận này không trái pháp luật, đạo đức xã hội nhưng HĐTT không ghi nhận sự thỏa thuận đó của các bên trong phán quyết trọng tài. Trong trường hợp này phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết trong lĩnh vực thương mại quy định tại Điều 11 Luật Thương mại năm 2005 và khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tòa án xem xét, quyết định việc hủy phán quyết trọng tài này vì trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam đã được Luật Thương mại và Bộ luật dân sự quy định.
Ngoài ra pháp luật cũng quy định có sự tham gia của Viện kiểm sát trong hoạt động hủy quyết định của trọng tài, với chức năng kiểm sát  hoạt động tư pháp. Theo quy định tại khoản 10 Điều 71 Luật TTTM năm 2010,  Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành. 
Như vậy, quyền yêu cầu Tòa án huỷ phán quyết trọng tài của các bên tranh chấp chỉ phát sinh nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh HĐTT đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy. Khoản 1 Điều 69 Luật TTTM năm 2010 quy định “...nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy theo khoản 2 Điều 68 Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài”. Sự quy định chặt chẽ về việc bên yêu cầu phải có căn cứ chứng minh việc phán quyết của HĐTT là sai giúp cho các bên phải tự chịu trách nhiệm với yêu cầu của chính mình, khi mà các bên có nhu cầu gửi đơn đến Tòa án để yêu cầu Tòa hủy phán quyết của trọng tài, họ sẽ phải tìm hiểu và đối chiếu các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài, điều này sẽ tránh được tình trạng bên phải thi hành không muốn thi hành phán quyết của trọng tài đưa ra yêu cầu huỷ quyết định trọng tài để kéo dài thời gian, tẩu tán tài sản hoặc hy vọng Toà án sẽ xử lại và không bắt thi hành nghĩa vụ.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM  năm 2010 cũng có quy định giúp cho HĐTT có thời gian khắc phục sai sót, nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài:“Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng”. Trong trường hợp HĐTT không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Toà án tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Khi giải quyết Toà án không xét xử lại việc tranh chấp bởi Toà án không phải là cấp xét xử thứ hai của trọng tài. Toà án không có thẩm quyền kết luận đúng sai về nội dung phán quyết của Trọng tài đối với vấn đề xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tranh chấp mà chỉ có quyền xem xét căn cứ để ra quyết định huỷ bỏ hoặc giữ nguyên quyết định trọng tài. Theo quy định tại khoản 8 Điều 71 Luật TTTM năm 2010: Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết trọng tài, các bên có thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án. Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu không hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài được thi hành.”
Việc pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết của trọng tài khi các bên yêu cầu có tác động rất lớn, qua đó khắc phục được những sai phạm nếu có của HĐTT khi giải quyết tranh chấp, làm cho vụ giải quyết tranh chấp thực sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Còn nếu phán quyết của HĐTT không thuộc một trong các trường hợp bị hủy thì một lần nữa khẳng định rằng HĐTT đã thực hiện việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng, đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên và phán quyết đó cần được các bên tôn trọng và tự nguyện thi hành hoặc được cưỡng chế thi hành. 
Từ những phân tích trên cho thấy, sự hỗ trợ của Tòa án về việc hủy phán quyết trọng tài đối với những phán quyết vi phạm pháp luật của TTTM giúp cho các nhà kinh doanh yên tâm hơn khi lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, vì khi trọng tài có sự vi phạm pháp luật, Tòa án sẽ đứng ra giúp đỡ họ.
 3. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về vai trò “hỗ trợ” của Tòa án đối với hoạt động của TTTM và kiến nghị
Thứ nhất, về quy định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên
Cần quy định về thời hạn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền quyết định thay đổi Trọng tài viên của trọng tài vụ việc. Bởi, theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM năm 2010, các Trọng tài viên trong HĐTT từ chối giải quyết tranh chấp hoặc các bên tranh chấp là những chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định thời hạn Tòa án phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên (là 15 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu) mà không có quy định về thời hạn nộp đơn yêu cầu của các chủ thể nói trên. Điều này, sẽ là “nguy cơ” làm kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hoặc nếu các chủ thể có quyền yêu cầu không nộp đơn yêu cầu đến Tòa án thì đương nhiên Tòa án không có thẩm quyền trong việc thay đổi Trọng tài viên, dẫn đến việc không có Trọng tài viên thay thế.
Tại Điều 9 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, có hướng dẫn về thay đổi Trọng tài viên trọng tài vụ việc quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM năm 2010, nhưng vẫn chưa quy định thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền, kể từ ngày Trọng tài viên thông báo bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc HĐTT và các bên về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình (khoản 2 Điều 42 Luật TTTM năm 2010). Các bên chỉ có quyền gửi yêu cầu thay đổi trọng tài viên trong thời hạn cho phép. Hết thời hạn theo quy định mà các bên không đưa ra yêu cầu thay đổi Trọng tài viên thì họ sẽ mất quyền yêu cầu. Điều này vừa có tác dụng bảo đảm quá trình tố tụng vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên, buộc họ phải theo dõi quá trình thành lập HĐTT cũng như trong suốt quá trình giải quyết. Bởi thực tế nhiều trường hợp khi một bên tranh chấp có ý định trốn tránh trách nhiệm nên không muốn tham gia tố tụng trọng tài. Đặc biệt là trong hình thức trọng tài vụ việc, các bên sẽ tự do tiến hành thành lập HĐTT theo ý chí của mình nên họ có thể gặp khó khăn lớn nếu một bên (thường là bị đơn) không muốn tham gia vào trọng tài khi tranh chấp phát sinh. Do đó, họ không đáp lại yêu cầu thành lập HĐTT của bên kia, sau đó, họ lại tìm cách trì hoãn tố tụng bẳng cách yêu cầu thay đổi Trọng tài viên. Do vậy, việc quy định cụ thể về thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền sẽ hạn chế được tình trạng này.
Thứ hai, hiểu như thế nào về hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài ?
Một số quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Luật TTTM năm 2010 chưa được quy định rõ ràng. Mà theo đó, Điều 49 Luật này quy định HĐTT có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên tranh chấp. Một trong những biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 49 Luật này: “Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài”. Vậy những hành vi nào được coi là bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài? Thực tế, việc xác định những hành vi này không phải là dễ vì nó phụ thuộc vào sự đánh giá chủ quan của mỗi cá nhân dưới nhiều góc độ khác nhau.
Do vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn nhằm thống nhất nhận thức và áp dụng quy định về những hành vi được coi là bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài trong Luật TTTM năm 2010, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho HĐTT thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên.
Thứ ba, việc điều tra, xác minh chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp mất nhiều thời gian hơn so với Tòa án
Trọng tài không phải cơ quan được giao quyền lực cưỡng chế của Nhà nước, nên, trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu xuất hiện trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trọng tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc thực hiện mà phải yêu cầu Tòa án thực hiện thay theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự  (Điều 50, 51, Luật TTTM năm 2010). Điều này khiến việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp mất thêm thời gian, không kịp thời và có thể tạo cơ hội cho một bên thực hiện một số hành vi gây ảnh hưởng bất lợi cho quá trình tố tụng và thi hành phán quyết sau này.
Bên cạnh đó, Trọng tài viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Tuy pháp luật có quy định trong các điều 45, 46, 47 Luật TTTM năm 2010 nhưng quyền của họ chỉ dừng lại ở “yêu cầu” còn việc cung cấp hay không thì phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện chí của các bên tranh chấp và người làm chứng.
Thứ tư, về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Luật TTTM năm 2010 quy định rất thận trọng khi cho các bên có thể lựa chọn Tòa án hoặc HĐTT để yêu cầu thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nhằm tránh tình trạng ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chồng chéo lẫn nhau mà vẫn đảm bảo tính kịp thời. Tuy nhiên, quy định này hiện còn nhiều ý kiến trái chiều khác nhau. Cụ thể:
Luật cho phép các bên yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì tất nhiên sẽ có những trường hợp Tòa án tích cực, có trách nhiệm ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi trọng tài có yêu cầu nhưng cũng sẽ có trường hợp Toà án đùn đẩy trách nhiệm lại cho HĐTT với lí do bản thân HĐTT cũng có quyền ra quyết định thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Hoặc ngược lại, cũng có trường hợp giữa Toà án và HĐTT “tranh nhau” ra quyết định thực hiện với yêu cầu của hai bên đương sự, khi mà theo quy định của pháp luật thì bên nào nhận việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước thì bên đó sẽ thực hiện, bên kia không có quyền thực hiện để tránh chồng chéo, trên thực tế trong một số trường hợp, có thể sẽ có lợi hơn cho nguyên đơn, nếu sau khi khởi kiện tại Trung tâm trọng tài và làm đơn gửi Tòa án yêu cầu ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Điều 53 Luật TTTM năm 2010,  như vậy, người yêu cầu sẽ không phải mất thời gian chờ thành lập HĐTT, quyết định của Tòa án được thi hành triệt để hơn. Trong khi đó, lại khó tránh tình trạng mỗi bên yêu cầu một cơ quan giải quyết, gây ra tình trạng “tranh nhau” thực hiện dù có thể chưa thực sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Dù HĐTT cũng được giao quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng trên thực tế việc thực hiện thường khó khăn. Tuy HĐTT có quyền yêu cầu bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như bảo toàn chứng cứ, bảo quản tài sản,...Nhưng trên thực tế quy định này lại phụ thuộc vào thiện chí các bên khi mà HĐTT không có quyền lực cưỡng chế thi hành. Trong khi đó, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mang nặng tính cưỡng chế, do cơ quan chức năng thực hiện theo Luật định, chứ HĐTT không thể làm được. Cũng có ý kiến cho rằng theo thông lệ quốc tế, trọng tài không có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trọng tài chỉ ra văn bản yêu cầu áp dụng và gửi sang Tòa án để Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ năm, về quy định Tòa án xét đơn hủy phán quyết của trọng tài
Theo quy định tại Điều 68 và Điều 71 Luật TTTM năm 2010, thì Tòa án không xem xét lại nội dung vụ tranh chấp mà HĐTT đã giải quyết, mà chỉ xem xét các vấn đề về tố tụng trọng tài đúng hay không đúng để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài.
Thực tế cho thấy, thời gian qua một số quyết định của Tòa án hủy quyết định của trọng tài gây thiệt hại cho quyền lợi của đương sự vì theo quy định tại khoản 10 Điều 71 Luật TTTM năm 2010, quyết định hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài của Tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành. Do đó, đương sự, HĐTT không có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm hoặc khiếu nại, kiến nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tái thẩm đối với phán quyết của Tòa án. Vấn đề có xem xét lại quyết định của Tòa án hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hay không đã được đặt ra từ thực tiễn.
Có ý kiến cho rằng, theo quy định của khoản 10 Điều 71 Luật TTTM năm 2010, quyết định của Tòa án về việc hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài là quyết định có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới. Vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Hiến pháp năm 2013: “Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án khác, trừ trường hợp luật định”. Đồng thời, theo quy định của khoản 2 Điều 17 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật này thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Mặt khác, theo tinh thần quy định của khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.”. Do vậy, nếu hiểu quy định của khoản 10 Điều 71 Luật TTTM  năm 2010, theo hướng không áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định của Tòa án thì có thể sẽ vi hiến. Từ đó, quyết định của Tòa án trong trường hợp này vẫn cần thiết phải được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.
Tác giả đồng tình với lập luận của quan điểm này, theo đó cần phải xem xét lại các quyết định của Tòa án trong trường hợp phán quyết của Tòa án có sai sót làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên đương sự là chính đáng và thể hiện bản chất của Nhà nước ta, vì Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân (khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013) đã khẳng định. Do vậy, trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, đề xuất sửa đổi quy định tại khoản 10 Điều 71 Luật TTTM năm 2010, theo hướng xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định của BLTTDS năm 2015 đối vối quyết định của Tòa án về việc hủy phán quyết của HĐTT.
 
Phạm Thị Hồng Đào  
 
[1] Báo cáo số 74/BC-BTP ngày 08/4/2016 của Bộ Tư pháp sơ kết 04 năm thi hành Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
[2] Các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm:
a) Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
b) Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài;
c) Kê biên tài sản đang tranh chấp;
d) Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc các bên tranh chấp;
đ) Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
e) Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
 
[3] Điều 114. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.
6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.
10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.
11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
12. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.
13. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.
14. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.
15. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.
16. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
17. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.