Luật cạnh tranh của Liên minh Châu Âu - nhân tố tác động điều chỉnh chính sách, kinh nghiệm với Việt Nam

20/04/2017
Ngay từ khi thành lập cộng đồng Châu Âu, chính sách cạnh tranh được coi như một công cụ quan trọng để thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trong khối. Bởi vì cạnh tranh hữu hiệu là yếu tố cơ bản kích thích đổi mới, tăng năng suất lao động qua đó nâng cao mức sống của người dân. Được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiệp ước Rome, các quy định về cạnh tranh tiếp tục được quy định và phát triển trong các Hiệp ước sau cũng như trong hệ thống pháp luật châu Âu.
Luật cạnh tranh châu Âu thúc đẩy việc duy trì cạnh tranh trong Liên minh châu Âu thông qua các quy định hành vi phản cạnh tranh của các công ty để đảm bảo rằng họ không tạo ra các tập đoàn các-ten và công ty độc quyền mà sẽ gây thiệt hại đến lợi ích của xã hội. Với một lịch sử có từ thời có các quy định cấm các hạn chế thương mại, và chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của Đạo luật Sherman năm 1890 và Đạo luật Clayton năm 1914 của Hoa Kỳ, pháp luật cạnh tranh châu Âu ngày nay có nguồn gốc chủ yếu từ các điều 101 đến 109 của Hiệp ước về các chức năng của Liên minh châu Âu.
1.Các công cụ thực hiện Luật Cạnh tranh của Liên minh Châu Âu
Các hình thức hợp tác giữa các công ty hoặc của một công ty đơn lẻ nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên thị trường đang diễn ra ngày càng nhiều. Đó cũng là lý do luật cạnh tranh đang được thông qua ở ngày càng nhiều các quốc gia trên thế giới với xu hướng ngày càng trừng phạt nặng hơn đối với các hành vi có hại cho cạnh tranh, làm giảm sự năng động của thị trường và làm méo mó quan hệ cung cầu. Mục đích cuối cùng của luật cạnh tranh là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng sao cho người tiêu dùng có quyền được lựa chọn sản phẩm tốt nhất và giá cả phù hợp nhất với nhu cầu của mình. Tuy nhiên hiện nay vấn đề khó nhất mà luật cạnh tranh đang phải đối mặt là làm sao để nhận biết hình thức hợp tác nào là có lợi, hình thức nào là có hại cho cạnh tranh bởi các hình thức này ngày càng phức tạp, đa dạng giữa các quốc gia. Thậm chí trong luật cạnh tranh của nước này thì hình thức đó được phép, ở nước khác lại bị cấm. Luật cạnh tranh muốn thực thi hiệu quả còn cần sự hợp tác thường xuyên giữa các quốc gia trên thế giới.
Luật cạnh tranh của Liên minh châu Âu yêu cầu chính phủ các quốc gia thành viên không được đặt ra hoặc duy trì các biện pháp nhằm hạn chế một trong ba nguyên tắc tự do cơ bản của liên minh: tự do lưu thông hàng hóa, tự do di chuyển và tự do cung cấp dịch vụ. Chính sách cạnh tranh của EU còn kiểm soát chặt chẽ các khoản trợ cấp của nhà nước dành cho các xí nghiệp của mình, để ngăn chặn xu hướng chính phủ các nước thông qua thông qua các khoản trợ cấp hay những đặc quyền nào đó bù đắp cho các công ty độc quyền.
Hội đồng châu Âu với vai trò là người quản lý luật cạnh tranh chịu trách nhiệm xử lý những vấn đề liên quan đến luật này cũng như cho phép việc sáp nhập và hợp nhất các công ty/tập đoàn lớn của Liên minh châu Âu ... để phát triển tự do thương mại và giảm bớt trợ giá từ chính phủ của các quốc gia thành viên cho các công ty/tập đoàn lớn của nước mình.
Quá trình liên kết của Liên minh Châu Âu dựa trên cơ sở xây dựng nền dân chủ và kinh tế thị trường, đảm bảo sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể và các nền kinh tế, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và cả xã hội. Sự can thiệp của Nhà nước được cho là cần thiết để hạn chế những tiêu cực của thị trường, đảm bảo các dịch vụ công cộng và phúc lợi xã hội. Do đó chính sách cạnh tranh của EU không chỉ tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp và còn điều chỉnh một số hoạt động của các nước thành viên, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về cạnh tranh, nhưng phần lớn các quan điểm đều thống nhất rằng cạnh tranh là sự ganh đua của các thành viên thuộc một thị trường hàng hóa, sản phẩm cụ thể nhằm mục đích thu hút về phía mình ngày càng nhiều khách hàng. Như vậy cạnh tranh là động lực phát triển của xã hội, là nhân tố làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội khi Nhà nước bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các chủ thế thuộc mọi thành phần kinh tế.
Nội dung chính sách cạnh tranh thể hiện trên nhiều lĩnh vực, như: Chính sách chống độc quyền và các thỏa thuận phản cạnh tranh (cartel); chính sách kiểm soát sáp nhập doanh nghiệp; chính sách kiểm soát hỗ trợ nhà nước; chính sách thúc đẩy tự do hóa. Theo các chính sách này, các quy tắc được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động ở thị trường thống nhất mà không quan tâm đến hình thức sở hữu của chúng. Các quốc gia thành viên có cơ quan thực thi luật cạnh tranh của họ, còn Ủy ban Châu Âu (Ủy ban) chịu trách nhiệm điều tra các vi phạm chính sách. Ủy ban có quyền lực đặc biệt bao gồm ấn định mức tiền phạt, buộc thay đổi các thỏa thuận sáp nhập và ngăn chặn hoạt động trợ cấp của nhà nước. Tuy nhiên, các quyết định này có thể bị kháng cáo ở Tòa án châu Âu.
Trong các chính sách này, chống độc quyền là nội dung quan trọng nhất trong việc đảm bảo tự do hoạt động và cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp trong một thị phần thống nhất.
Một là, Chính sách chống độc quyền và các thỏa thuận phản cạnh tranh (cartel)
- Các thỏa thuận: Điều 81 Hiệp định Rome[1] quy định ngăn cấm thỏa thuận mà chúng tác động hoặc có chủ ý ngăn chặn, hạn chế hoặc làm chệch hướng cạnh tranh, theo đó “nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định liên kết doanh nghiệp và mọi dạng thỏa thuận có khả năng ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước thành viên và có mục đích hoặc hậu quả ngăn cản, hạn chế và làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường chung”. Quy định này áp dụng đối với các thỏa thuận theo chiều ngang giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và các thỏa thuận theo chiều dọc giữa các doanh nghiệp thuộc cùng một chuỗi sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Liên quan đến lĩnh vực này, Ủy ban có quyền rất lớn trong việc tiến hành điều tra, bao gồm vào trụ sở của các doanh nghiệp mà không cần báo trước để xem xét các tài liệu nội bộ của doanh nghiệp, có quyền truy cứu bất cứ doanh nghiệp nào vi phạm pháp luật và áp dụng mức phạt tiền lên đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp.
Thuật ngữ “Thỏa thuận” được hiểu theo nghĩa rộng là ngăn chặn việc mở rộng các hoạt động phối hợp hoặc các thỏa thuận khác mà làm đổ vỡ các hợp đồng theo Luật Dân sự. Một số thỏa thuận được quy định rõ ràng: Ấn định giá hoặc các điều kiện thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp; Hạn chế hoặc kiểm soát sản xuất, thị trường, đầu tư hoặc phát triển kỹ thuật; Phân chia thị trường hoặc cung cấp đẩy các đối tác thương mại vào thế bất lợi. Điều 81 Luật Cạnh tranh đã quy định rõ ràng hơn đối với các trường hợp mua bán được phép (trong một số thị trường nhất định) vì kết quả của việc này làm tăng tính hiệu quả.
Tất cả các trường hợp thỏa thuận làm phân chia thị trường hoặc kiểm soát giá cả, kể cả các phân chia lợi nhuận hoặc thỏa thuận tăng giá và các quy định ngược với thương mại công bằng sẽ bị bãi bỏ. Trao đổi thông tin giá cả chỉ được phép khi đã được thông qua.
- Miễn trừ: Một thỏa thuận có thể bị ngăn cấm những có thể được phép thực hiện nếu thỏa thuận đó làm tăng sản xuất hoặc phân phối hoặc thúc đẩy kỹ thuật và cho phép người tiêu dùng được phân chia lợi ích một cách bình đẳng, chỉ những trường hợp bắt buộc hạn chế như vậy sẽ đạt được mục tiêu và không cho phép loại bỏ cạnh tranh cho một phần chủ yếu của sản xuất. Miễn trừ có thể được áp dụng tùy vào trường hợp cụ thể, ngoài ra thường được áp dụng theo khuôn miễn trừ  mà thường có các điều kiện và ưu tiên cho phép thực hiện, trong đó có các điều khoản hoặc có thể hoặc không thể xuất hiện trong thỏa thuận. Bất cứ một thỏa thuận nào mà hội tụ đủ các điều kiện sẽ được miễn trừ, được áp dụng theo quan hệ dọc, gồm: loại trừ phân phối, loại trừ mua, loại trừ quyền cấp kinh doanh.
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường: Điều 82 Luật Cạnh tranh quy định việc ngăn cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và đưa ra một danh sách hành vi có thể được xem xét là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường: áp đặt giá mua/ bán hoặc các điều kiện buôn bán không công bằng (trực tiếp hoặc gián tiếp), hạn chế sản xuất, thị trường hoặc phát triển kỹ thuật gây tổn hại tới người tiêu dùng, phân biệt mà đẩy đối tác thương mại vào thế bất lợi, áp đặt các điều kiện hợp đồng không phù hợp, dẫn đến bất lợi đối với các đối tác khác trên thị trường có thể được xem như là lạm dụng. Vị trí thống lĩnh thường lạm dụng ưu thế thị trường trên 50% và có thể đặt mức thấp hơn thuộc vào các nhân tố khác. Việc ngăn cấm có thể mở rộng vị trí lạm dụng với một vài công ty liên kết cùng nhau, thậm chí không chỉ một công ty có mức chiếm lĩnh thị trường tương đối.
Chính sách chống độc quyền được quy định tại Điều 82 của Hiệp định Rome, theo đó, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là hành vi: “bị coi là đi ngược với thị trường chung và bị cấm, trong chừng mực mà thương mại giữa các nước thành viên có khả năng bị ảnh hưởng, hành vi của một hoặc nhiều doanh nghiệp khai thác một cách lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường chung hoặc trên một phần của thị trường chung”. Chính sách cạnh tranh của EU không ngăn cản vị trí thống lĩnh của các doanh nghiệp, bởi suy cho cùng, nhiều doanh nghiệp có được vị trí này là do kết quả của quá trình kinh doanh trên thương trường. Chính sách cạnh tranh của EU thể hiện rất rõ quan điểm ngăn cản việc lạm dụng vị trí thống lĩnh như các hành vi bán dưới giá thành làm suy yếu đối thủ, hoặc các thỏa thuận cung cấp và phân phối độc quyền để loại bỏ đối thủ cạnh tranh… Một ví dụ điển hình trong vấn đề này là trường hợp của công ty Microsoft: Với tư cách là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trong lĩnh vực sản xuất phần mềm máy tính, Microsoft đã buộc khách hàng chỉ có thể mua được máy tính nếu chấp nhận mua kèm hệ điều hành Windows của mình. Ủy ban đã đệ trình các biện pháp để ngăn cản hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh này như phạt tiền, buộc Microsoft phải li-xăng công nghệ, hoặc buộc Microsoft phải chia nhỏ doanh nghiệp thông qua việc bán một lượng tài sản nhất định.
Một ví dụ điển hình chứng minh cho quyền lực rất lớn này của Ủy ban, đó là, sau cuộc điều tra kéo dài 7 năm của Liên minh Châu Âu nhắm vào công cụ tìm kiếm của Google, Tòa án Brussels đưa ra mức phạt kỷ lục 3,4 tỷ USD đối với hành vi vi phạm luật cạnh tranh của công ty này. Con số này đã vượt qua mức phạt 1,2 tỷ USD dành cho Intel năm 2009.
Liên minh Châu Âu cáo buộc Google đã không công bằng khi thúc đẩy dịch vụ mua sắm của mình (Google Shopping) trong kết quả hiển thị của Google Search. Điều này gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Google Shopping. Trong 6 năm qua, đã có 3 lần thương lượng giữa hai bên nhưng Liên minh Châu Âu cho rằng phía Google không có thiện chí thay đổi lập trường của họ trong vấn đề này.
Các quan chức EU có thể đưa ra quyết định chính thức trong tháng Sáu tới mặc dù hồ sơ vẫn chưa được hoàn thiện. Ngoài mức tiền phạt, Google cũng không được tái diễn hành vi vi phạm luật cạnh tranh của mình nữa.
Ngoài ra, Liên minh Châu Âu cũng đang tiến hành một cuộc điều tra chính sách của Google trên nền tảng Android. Các nhà chức trách tin rằng các ứng dụng cài đặt sẵn của Google, việc yêu cầu cấp phép Android và khuyến khích tài chính cho các đối tác làm ảnh hưởng đến những nỗ lực cạnh tranh và sáng tạo. Nếu bị kết án trong trường hợp này, Google phải đóng mức phạt có thể lên đến 10% doanh thu bán hàng hàng năm của công ty.
Tuy nhiên, điều cần lưu ý là, chính sách cạnh tranh của EU không cho rằng mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp đều là vi phạm pháp luật. Trong trường hợp, thỏa thuận giữa các doanh nghiệp mang lại lợi ích lớn hơn những hạn chế cạnh tranh thì Ủy ban có quyền cho phép thực hiện những thỏa thuận như vậy, nhằm đảm bảo tính hợp tình và hợp lý của các quy tắc cạnh tranh. Trường hợp này được gọi là “miễn trừ ngăn cản”, tức là Ủy ban đưa ra những miễn trừ thay vì ngăn cản thỏa thuận giữa các doanh nghiệp.
Hai là, Chính sách kiểm soát sáp nhập doanh nghiệp
Việc sáp nhập doanh nghiệp có thể đưa đến sự ra đời một doanh nghiệp mới có vị trí thống lĩnh. Điều này có thể sẽ làm sai lệch thị trường và không đảm bảo cạnh tranh. Chính vì vậy, hành vi sáp nhập hay hợp nhất doanh nghiệp cũng là đối tượng quan tâm đặc biệt trong chính sách cạnh tranh của EU. Tuy nhiên, cần lưu ý là hoạt động sáp nhập chỉ bị ngăn cản nếu nó tạo ra hoặc nâng cao vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp và làm ảnh hưởng đến hiệu quả cạnh tranh. Năm 1990, chính sách cạnh tranh EU đã có bổ sung đối với vấn đề sáp nhập. Theo đó, các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp có tổng doanh thu trên 5 tỷ euro chỉ được sáp nhập khi có sự phê chuẩn đồng ý của Ủy ban. Thủ tục sáp nhập được diễn ra theo hai bước. Giai đoạn kiểm tra sơ bộ diễn ra trong vòng một tháng. Đây là giai đoạn các chuyên gia xem xét và đưa ra quyết định việc sáp nhập có tác động đến cạnh tranh hay không. Kết quả của giai đoạn này là (i) doanh nghiệp bị từ chối cho phép sáp nhập, hoăc (ii) được cho phép thực hiện sáp nhập ngay, hoặc (iii) Ủy ban phải mở thủ tục xem xét hoạt động sáp nhập.
Ba là, Chính sách kiểm soát trợ cấp nhà nước
Vấn đề kiểm soát trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp được quy định tại Điều 87 và 88 của Hiệp định Rome, cụ thể là “tất cả các biện pháp trợ cấp do các quốc gia thành viên thực hiện hoặc bằng cách sử dụng các nguồn lực của quốc gia đó dưới bất kỳ hình thức nào, trong chừng mực mà các biện pháp trợ cấp đó liên quan đến các giao dịch giữa các quốc gia thành viên, mà làm sai lệch hoặc đe dọa làm sai lệch cạnh tranh bằng việc hỗ trợ một nhóm doanh nghiệp hoặc một nhóm ngành nghề sản xuất” thì bị coi là đi ngược với thị trường chung.
Trợ cấp của nhà nước có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như miễn hoặc giảm thuế đối với doanh nghiệp. Các quốc gia thành viên có thể trợ cấp cho các doanh nghiệp trong nước nhằm giúp họ đối mặt với cạnh tranh có thể đến từ các quốc gia còn lại. Điều này sẽ tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh trong Liên minh và sẽ làm sai lệch cạnh tranh. Điều đặc biệt cần quan tâm là các công ty thuộc sở hữu nhà nước được trợ cấp để cạnh tranh với các đối thủ thuộc khu vực tư nhân. Trong các trường hợp này, Ủy ban có quyền ngăn cản hoặc buộc phải thu hồi các khoản trợ cấp.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, trợ cấp của nhà nước có thể xem là chấp nhận được, chẳng hạn như trợ cấp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ở những vùng kém thuận lợi, bảo tồn văn hóa và di sản và các dự án vì lợi ích chung của Châu Âu.
Cơ quan chịu trách nhiệm chính thi hành chính sách cạnh tranh của EU là Ủy ban châu Âu. Các quốc gia thành viên trao cho Ủy ban vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển một thị trường thống nhất và đấu tranh cho tự do hóa thương mại. Trong việc thực thi chính sách cạnh tranh, Ủy ban đã thể hiện rất rõ vai trò này thông qua việc ngăn cản hoặc phê chuẩn việc sáp nhập doanh nghiệp hoặc các hoạt động điều tra trợ cấp nhà nước ở các quốc gia thành viên.
Có thể dẫn chứng ra đây một ví dụ thể hiện rất rõ vai trò của Ủy ban trong việc đảm bảo công bằng và thúc đẩy tự do hóa thương mại nội khối. Cụ thể là Electricité de France - một doanh nghiệp của Pháp - đã tiến hành mua lại các doanh nghiệp nhà nước cùng ngành trên toàn châu Âu. Phản ứng trước vấn đề này, Chính phủ Tây Ban Nha và Ý đã dọa rằng họ sẽ can thiệp để ngăn cản quyền bỏ phiếu của các nhà đầu tư Pháp trong các doanh nghiệp này nếu Chính phủ Pháp không mở cửa thị trường năng lượng của mình. Mâu thuẫn trở nên căng thẳng và buộc Ủy ban phải can thiệp. Một mặt Ủy ban cho rằng sự đe dọa của Chính phủ Ý và Tây Ban Nha là mang tính phân biệt, có khả năng dẫn đến vi phạm chính sách cạnh tranh, nhưng mặt khác, Ủy ban cũng hứa sẽ điều tra các hành vi của Electricité de France bị cáo buộc là phản cạnh tranh. Rõ ràng vai trò của Ủy ban đã thể hiện đúng lúc nhằm làm cho chính sách cạnh tranh được thi hành trên thực tế. 
Như vậy xét về bản chất, chính sách cạnh tranh của EU không ngăn cản vị trí thống lĩnh của các doanh nghiệp bởi thực tế nhiều doanh nghiệp có vị trí cao đều do kết quả của quá trình kinh doanh thành công trên thương trường. Chính sách cạnh tranh của EU thể hiện rất rõ quan điểm  ngăn cản việc lạm dụng ví trí thống lĩnh  như các hành vi bán dưới giá thành làm suy yếu đối thủ hoặc các thỏa thuận cung cấp và phân phối độc quyền để loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
2.Nhân tố tác động điều chỉnh chính sách cạnh tranh của Liên minh châu Âu
Trong những năm gần đây, pháp luật và chính sách cạnh tranh của Liên minh châu Âu (EU) đã thay đổi một cách đáng kể bởi những tác động từ những yếu tố nội khối cũng như những yếu tố quốc tế. EU ngày càng mở rộng với 27[2] quốc gia thành viên, đồng nghĩa với nó là 27 đạo luật cạnh tranh và 27 cơ quan tài phán khác nhau. Đáng chú ý là các quốc gia thuộc Trung và Đông Âu, khi gia nhập EU, không có nền tảng chính sách cạnh tranh và kinh tế thị trường như các quốc gia thành viên trước họ. Chính vì vậy, nhu cầu thay đổi chính sách cạnh tranh là đòi hỏi nội tại của chính EU để làm sao có được sự hài hòa giữa chính sách cạnh tranh của toàn khối và các quốc gia thành viên. Hơn nữa, xu thế toàn cầu hóa cũng đòi hỏi chính sách cạnh tranh của EU phải có những thay đổi cho phù hợp hơn. Pháp luật cạnh tranh thường tồn tại ở cấp độ quốc gia, trong khi các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia – như bản thân tên gọi của nó – lại không chịu giới hạn bởi các đường biên giới địa lý. Điều này đòi hỏi pháp luật cạnh tranh của EU phải thay đổi cho phù hợp với pháp luật của thế giới mà điển hình như Mỹ, Nhật, Trung Quốc và WT
Một là, Tự do hóa thương mại và cạnh tranh tác động đến nhu cầu điều chỉnh nội dung chính sách cạnh tranh
Dưới tác động của tự do hóa, chính sách cạnh tranh của EU đặc biệt chú ý đến sự thay đổi trong các ngành như viễn thông, năng lượng, giao thông vận tải… Đó là vì những ngành này ít nhiều vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Một số quốc gia đã tiến hành tư nhân hóa các ngành này nhưng trên thực tế các doanh nghiệp nhà nước sau khi được tư nhân hóa vẫn có vị trí thống lĩnh thị trường, bởi vậy chính sách cạnh tranh cần tiếp tục có những tác động mạnh mẽ hơn đến khu vực này. Để thực hiện mục tiêu này, chính sách cạnh tranh của EU phải tính đến “độc quyền tự nhiên”. Độc quyền tự nhiên được hiểu là hiện tượng xảy ra trên thị trường khi toàn bộ sản phẩm của thị trường đó nếu được cung cấp bởi một doanh nghiệp thì sẽ ở mức giá thấp hơn so với việc có hai hay nhiều doanh nghiệp cùng cung cấp sản phẩm đó. Điều này là do tính chất của sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ được cung cấp quyết định. Nói cách khác, độc quyền tự nhiên là mô hình tối ưu trong những lĩnh vực nhất định, khi mà chỉ cần một nhà sản xuất là đủ khả năng cung cấp sản phẩm cho thị trường với hiệu quả kinh tế cao nhất. Vì thế, nếu cho phép các nhà cung cấp khác tham gia vào thị trường sẽ dẫn tới “sự canh tranh lãng phí”. Ví dụ như trong ngành sản xuất và kinh doanh điện, việc có nhiều nhà sản xuất điện cạnh tranh trên thị trường sẽ làm giảm giá bán điện và nâng cao chất lượng điện được cung cấp. Tuy thế, trong một quốc gia thì không nhất thiết mỗi nhà sản xuất điện phải xây dựng một hệ thống dây truyền tải riêng biệt. Đó là điều không thể làm được đối với tất cả các doanh nghiệp, vì nó đòi hỏi chi phí rất lớn cũng như gây ra sự lãng phí không cần thiết. Chính vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất điện chỉ cần cùng sử dụng một hệ thống đường truyền tải là đủ. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp nắm giữ hệ thống truyền tải điện sẽ trở thành nhà độc quyền và hiện tượng đó được gọi là độc quyền tự nhiên. Những ví dụ khác về độc quyền tự nhiên có thể tìm thấy trong các ngành như vận tải đường sắt, đường hàng không hay viễn thông. Trong các trường hợp này, độc quyền tự nhiên tồn tại ở chỗ chỉ cần một nhà cung cấp hệ thống đường ray, một nhà cung cấp nhà ga sân bay và tương tự như vậy chỉ cần một doanh nghiệp cung cấp đường trục viễn thông là đủ. Các yếu tố mà ở đó, độc quyền tự nhiên tồn tại được gọi là các “phương tiện thiết yếu”. Người ta gọi đây là độc quyền tự nhiên bởi vì có một ly do “tự nhiên” cho độc quyền tồn tại, đó là bản thân sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải có một mức độ kinh tế nhất định mới có thể cung cấp được sản phẩm đó ở hiệu quả cao nhất. Và do vậy, độc quyền tự nhiên là một rào cản được hình thành tự nhiên trong thị trường. Việc xác định rõ ranh giới của độc quyền tự nhiên là điều rất quan trọng trong việc quy định độc quyền của một số ngành nhất định.
Chính sách cạnh tranh của EU không chỉ tập trung vào việc tư nhân hóa các lĩnh vực này mà cần phải xác định rõ và có sự phân tách giữa độc quyền tự nhiên và cạnh tranh tiềm năng. Có như vậy, mới đảm bảo tự do cạnh tranh mà vẫn duy trì được sự kiểm soát của Chính phủ các quốc gia thành viên đối với các lĩnh vực độc quyền tự nhiên. 
Hai là, Tự do hóa thương mại và cạnh tranh tác động đến nhu cầu điều chỉnh thể chế
Mặc dù Ủy ban đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách cạnh tranh, song nhu cầu về tự do hóa thương mại khiến cho các quốc gia thành viên thường phàn nàn rằng, Ủy ban có quyền lực quá lớn và chính sách cạnh tranh không được thi hành một cách độc lập. Có thể viện dẫn ra đây những trường hợp xung đột giữa các quốc gia thành viên và EU liên quan đến các vụ sáp nhập và tập trung kinh tế. Năm 1992, các doanh nghiệp nhà nước của Pháp và Ý mong muốn mua lại một nhà máy sản xuất máy bay loại nhỏ của Canada (vụ De Havilland). Tuy nhiên, Ủy ban đã ngăn cản hoạt động mua bán này bởi họ cho rằng, nó sẽ dẫn đến sự tập trung quá mức trên thị trường sản xuất các loại máy bay nhỏ. Chính phủ Pháp và Ý đã kịch liệt phản đối vì cho rằng đây là sự can thiệp không có căn cứ, nhưng cũng không thể đảo ngược được quyết định của Ủy ban. Những tranh chấp tương tự như vậy chắc chắn sẽ trở nên phổ biến hơn trong thời gian tới khi chính sách cạnh tranh được áp dụng cả trong các ngành vốn vẫn được bảo hộ bởi các Chính phủ của các quốc gia thành viên, như viễn thông, bưu chính, năng lượng và giao thông.
Mặc dù châu Âu đã chính thức thiết lập thị trường chung nhưng nhiều lĩnh vực vẫn duy trì ở cấp độ quốc gia. Chính vì vậy, xung đột giữa Ủy ban và các quốc gia thành viên là điều không thể tránh khỏi. Các quốc gia thường ủng hộ các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực sáp nhập hoặc hợp nhất để có thể cạnh tranh hiệu quả hơn trên thị trường quốc tế, trong khi điều này rất khó nhận được sự phê chuẩn của Ủy ban. Các quốc gia thường cho rằng, thị trường trong mỗi vụ việc tồn tại ở cấp độ quốc gia, do đó Ủy ban không nên can thiệp vào. Vấn đề này nên trao cho cơ quan quản lý cạnh tranh của các quốc gia thành viên thực hiện.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cạnh tranh EU hiện nay là một bộ phận của Ủy ban. Ủy ban bao gồm đại diện của các quốc gia thành viên và hoạt động theo nguyên tắc tập thể. Về nguyên tắc, hoạt động của Ủy ban và các thành viên của nó không chịu sức ép chính trị từ các Chính phủ của các quốc gia thành viên, nhưng điều này không phải lúc nào cũng được thực hiện triệt để trên thực tế. Lấy một ví dụ minh chứng cho điều này. Trong vụ De Havilland, Ủy ban đã phân chia thành hai luồng quan điểm khác nhau đối với quyết định ngăn cản thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong vụ việc này, Chính phủ Pháp và Ý đã đặt những áp lực mạnh mẽ lên đại diện của họ tại Ủy ban với mong muốn thỏa thuận được thực hiện. Sự chia rẽ quan điểm trong Ủy ban bắt nguồn từ các sức ép chính trị khiến cho Ủy viên cạnh tranh phải dọa sẽ từ chức nếu thỏa thuận này được phép thực hiện. Do ủy viên Ủy ban được chỉ định mang tính chính trị nên thường có nguy cơ là các Chính phủ quốc gia của họ sẽ cố gắng can thiệp vào các quyết định quan trọng. Hệ thống hiện tại sẽ tạo ra nguy cơ xuất hiện hành vi mang lại lợi ích chính trị nhiều hơn là đảm bảo được sự tự do cạnh tranh và tự do hóa thương mại. Nhìn sang lĩnh vực ngân hàng, câu hỏi đặt ra là tại sao đồng euro lại có thể đảm bảo được giá trị của nó và được chấp nhận một cách rộng rãi như vậy? Đó là vì Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) đặt tại Frankfurt (Đức) có quyền lực đặc biệt trong việc ấn định tỷ suất lợi nhuận của đồng euro cũng như có sự độc lập về chính trị. Hơn nữa, ECB một mặt tự đưa ra những quyết định quan trọng nhưng mặt khác, vẫn có mối liên hệ mật thiết với ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. Điều này khiến cho các quốc gia thành viên có thể tham gia được vào hoạt động của hệ thống tiền tệ của toàn Liên minh. 
Học tập kinh nghiệm thiết kế mô hình ECB, nhiều quan điểm cho rằng cần tách cơ quan cạnh tranh EU ra khỏi Ủy ban. Cơ quan này sẽ hoạt động độc lập và không chịu bất kỳ sức ép chính trị nào, chỉ tập trung vào việc áp dụng pháp luật cạnh tranh đối với các vấn đề sáp nhập và chống độc quyền. Lúc này Ủy ban đóng vai trò là người giám sát hoạt động của Cơ quan cạnh tranh EU, sẽ can thiệp trong các trường hợp chính sách cạnh tranh có quan hệ với các vấn đề khác như môi trường, việc làm… Tuy nhiên, trước khi đưa ra quyết định, Ủy ban phải giải thích rõ lý do của các quyết định đó. Như vậy, thay vì cơ chế hiện nay là Tòa án châu Âu giám sát Ủy ban (cũng là giám sát cơ quan cạnh tranh EU vì cơ quan này trực thuộc Ủy ban) là cơ chế Ủy ban giám sát cơ quan cạnh tranh EU khi cơ quan này được tách ra độc lập. Như vậy, kháng cáo các quyết định của cơ quan cạnh tranh EU có thể gửi tới Ủy ban. Khác với kháng cáo gửi tới Tòa án, nơi có một thủ tục tương đối phức tạp thì Ủy ban có thể cung cấp một thủ kháng cáo rút gọn nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên tranh chấp. 
Ba là, EU vẫn chưa có một quy chế phối hợp giữa các thể chế cạnh tranh của Liên minh và thể chế cạnh tranh của các quốc gia thành viên. Theo chính sách cạnh tranh của EU thì Ủy ban chịu trách nhiệm điều tra các vụ thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh, nhưng không có quyền truy tố hình sự. Chỉ cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia mới có quyền áp dụng chế tài hình sự đối với các cá nhân lãnh đạo doanh nghiệp có hành vi phản cạnh tranh. Một số quốc gia thuộc EU đã đưa vào luật cạnh tranh của mình chế tài hình sự như Áo, Pháp, Đức và Ailen. Tuy nhiên, cơ chế này dẫn đến sự bất cập là Ủy ban, mặc dù điều tra các vụ việc cạnh tranh lớn, nhưng không có quyền năng trong lĩnh vực hình sự trong khi các quốc gia thành viên có quyền năng này thì chỉ điều tra các vụ việc nhỏ, mang tính địa phương. Một bất cập nữa có thể nảy sinh là nếu hành vi phạm tội xảy ra ở một quốc gia, nhưng việc thu thập bằng chứng lại ở quốc gia khác thì cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia cũng cần phải được hoàn thiện hơn.
Để khắc phục vấn đề này, Ủy ban cố gắng đi tìm các biện pháp chế tài khác thay thế cho chế tài hình sự. Một trong các đề xuất được đưa ra hiện nay là thay vì xử lý hình sự đối với các cá nhân lãnh đạo trong doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, pháp luật nên cho phép áp dụng hình thức phế truất chức danh lãnh đạo doanh nghiệp của một cá nhân trên phạm vi toàn châu Âu. Làm như vậy sẽ giảm bớt việc áp dụng chế tài hình sự đồng thời vẫn xử lý được hành vi vi phạm của các cá nhân.
Cuối cùng, các quốc gia thành viên thường cho rằng, cơ chế phối hợp giữa Ủy ban và cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia đơn thuần chỉ là chủ thể phụ thuộc vào Ủy ban, Ủy ban tước đi thẩm quyền tài phán quốc gia của họ. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế mới, theo đó quan hệ giữa Ủy ban và cơ quan cạnh tranh quốc gia là quan hệ đối tác chứ không phải là quan hệ phụ thuộc như hiện nay.
Bốn là, Quá trình toàn cầu hóa và vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế khu vực EU với các đối tác khác trên thế giới
Toàn cầu hóa có ảnh hưởng lớn đến chính sách cạnh tranh của các quốc gia. Điều này là bởi vì, chính sự phát triển của khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa đã biến nhiều thị trường quốc gia thành thị trường thế giới. Chẳng hạn việc nối liền các tuyến đường sắt giữa vùng trung tâm với các vùng xa xôi, hẻo lánh như tuyến đường sắt Thanh Hải - Tây Tạng của Trung Quốc hay các tuyến đường sắt xuyên Á đã và đang được xây dựng sẽ làm phá vỡ tính độc lập của các vùng lãnh thổ và các quốc gia. Sự phát triển nhanh chóng của các thị trường quốc tế như vậy đã tác động vào chính sách cạnh tranh theo hướng chính sách cạnh tranh buộc phải mở rộng và tính đến những tình huống mới phát sinh mang tính quốc tế. Chẳng hạn như việc sáp nhập giữa các doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu như trước đây các chính sách cạnh tranh chủ yếu quan tâm đến các doanh nghiệp nội khối, thì nay điều đó là chưa đủ. Chẳng hạn như việc sáp nhập giữa công ty Generel Electric (GE) của Mỹ với công ty Honeywell của EU năm 2001, việc sáp nhập giữa doanh nghiệp của EU và Nam Phi là Lonrho và Gencor năm 1996…
Vấn đề đặt ra là nếu các cơ quan thi hành pháp luật không có hiểu biết đầy đủ về hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài hoặc thiếu quyền hạn pháp lý để xử lý các hành động đó, có thể sẽ không bảo vệ được nền kinh tế của mình khỏi nguy cơ do cạnh tranh gây ra. Hơn nữa, nếu không có một cơ chế phối hợp giữa các quốc gia thì đôi khi có thể dẫn đến tình trạng vì lợi ích chính trị mà các quốc gia không công nhận lẫn nhau các phán quyết của cơ quan cạnh tranh mỗi nước. Điều đó sẽ có thể dẫn đến xung đột giữa các quốc gia và kết quả là các doanh nghiệp sẽ chẳng có lợi gì từ những xung đột chính trị đó. Ví dụ cho trường hợp này là năm 2000 và năm 2001, Hoa Kỳ đã phản đối kịch liệt việc Ủy ban châu Âu cho phép hai trường hợp sáp nhập của BOC và Air Liquide cũng như trường hợp sáp nhập của Generel Electric (GE) và Honeywell. Đối với vụ GE và Honeywell, tháng 10/2000, cơ quan cạnh tranh của Mỹ thông báo rằng tổ hợp công nghiệp GE muốn mua công ty hàng không và điện tử Honeywell với giá 45 tỷ đô la. Cơ quan cạnh tranh thuộc Ủy ban châu Âu cũng ra thông báo tương tự như vậy vào tháng 2/2001. Nhưng hai cơ quan này đã đi đến những phán quyết khác nhau. Có tình trạng này là vì hai cơ quan cạnh tranh đã sử dụng các tiêu chí khác nhau trong việc xem xét sáp nhập. Về phía Ủy ban châu Âu, họ cho rằng việc sáp nhập này sẽ dẫn đến thâu tóm ngành và kết quả là sẽ loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường.
Trong khi đó, phía cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ nhận định người tiêu dùng sẽ có lợi trong vụ sáp nhập này. Như vậy, mỗi cơ quan cạnh tranh đánh giá hành vi sáp nhập trên các tiêu chí khác nhau nên dẫn đến kết quả hoàn toàn trái ngược nhau. Với kết quả này, hai doanh nghiệp thuộc hai nền kinh tế khác nhau chẳng có lợi gì bởi họ chỉ được thừa nhận từ một phía, trong khi hoạt động của họ ngày càng trở nên mang tính quốc tế và đa quốc gia.
Để giải quyết các vấn đề trên và để nâng cao khả năng cạnh tranh với các nền kinh tế khác, EU đề xuất một chính sách cạnh tranh toàn cầu theo đó, chính sách cạnh tranh cần trở thành chủ đề quan tâm của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong việc điều chỉnh chính sách cạnh tranh, EU còn hướng đến xây dựng một tổ chức cạnh tranh quốc tế WCO (WCO là viết tắt của chữ tiếng Anh World Competition Orrganization), nhằm tạo ra sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý cạnh tranh của tất cả các quốc gia. Theo quan điểm của EU, WCO sẽ đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật cạnh tranh theo hướng xóa bỏ sự phân biệt đối xử và trong trường hợp có tranh chấp giữa các cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia, WCO sẽ đóng vai trò là trọng tài xét xử các tranh chấp đó. Ngoài ra, WCO cũng sẽ trợ giúp việc xây dựng cơ chế thực thi chính sách cạnh tranh ở các quốc gia đang phát triển. Hoạt động đó cuối cùng là nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh tốt cho các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia hoạt động. Thực tế thì trong số các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia của thế giới, các doanh nghiệp của EU chiếm một số lượng đáng kể. Chính sách này của EU suy đến cùng cũng là để phục vụ lợi ích của các doanh nghiệp trong khối[3].
3.Bài học rút ra cho việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Tính đến nay, tại Việt Nam có hơn 100 vụ việc liên quan đến vi phạm các quy định của pháp luật cạnh tranh bị điều tra và xử lý, trong đó có 20 doanh nghiệp bị xử phạt tiền, hơn 30 doanh nghiệp phải chịu phí xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh đã thi hành đầy đủ quyết định của Hội đồng Cạnh tranh. Vụ việc tiêu biểu phải kể tới là hành vi hạn chế cạnh tranh lạm dụng vị trí độc quyền của Công ty xăng dầu hàng không Vinapco với Hãng hàng không Pacific Airline (PA). Trong vụ này, Vinapco đã áp đặt các điều kiện bất lợi cho PA và lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi, huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng. Sau khi xem xét khiếu nại của các bên, Hội đồng Cạnh tranh đã xử phạt Vinapco 3,37 tỷ đồng vì những hành vi nêu trên. Hạn chế cạnh tranh trong bảo hiểm học sinh của 12 doanh nghiệp tại Khánh Hòa, thị phần kết hợp của 12 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm 99,81%, vượt quá ngưỡng 30% trên thị trường liên quan quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004. Do đó, hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp của 12 doanh nghiệp bị điều tra là hành vi vi phạm quy định. Sau khi bị Hội đồng Cạnh tranh xét phạt, các đơn vị trên đã thực hiện nhiều biện pháp để khắc phục những hậu quả mình gây ra.
Một là, kinh nghiệm từ các vụ việc lạm dụng thống lĩnh tại EU, cho thấy, các quy định về thị phần khác so với pháp luật cạnh tranh củaViệt Nam. Cụ thể EU quy định rằng DN phải có thị phần 50% trở lên mới chiếm vị trí thống lĩnh, còn dưới 40% thì chưa rõ rệt và cần phải có những bằng chứng xác thực mới có thể kết luận rằng DN có lạm dụng vị trí thống lĩnh hay không. Trong khi đó tại Việt Nam, doanh ngiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Đây là điểm khác biệt nhất giữa pháp luật của Việt Nam với các nước EU.
Từ kinh nghiệm của các vụ việc nêu trên, đặc biệt là những doanh nghiệp có vị trí độc quyền cần hiểu biết về những điều được làm và không được làm để không có hành vi vi phạm. Bởi lẽ trong lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, ví dụ như cung cấp xăng dầu hàng không thì việc ngừng cung cấp dịch vụ không chỉ ảnh hưởng tới đối tác kinh doanh mà còn ảnh hưởng tới các khách hàng khác.
Luật Cạnh tranh không chỉ là một vấn đề quan trọng trong nước mà còn là tiền đề và nội dung không thể thiếu trong các vòng đàm phán Hiệp định thương mại tự do giữa các quốc gia.Việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh được đánh giá là vấn đề có tính chất phức tạp, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện song song các điều tra, phân tích kinh tế-kỹ thuật để xử lý phù hợp với các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan để chuẩn bị xử lý một vụ việc hạn chế cạnh tranh, phải được công bố công khai, kịp thời và có phân tích, giải thích đầy đủ cho doanh nghiệp hiểu rõ về hành vi vi phạm. Từ đó, cơ quan quản lý lẫn doanh nghiệp đều tích lũy được kinh nghiệm, góp phần tạo môi trường cạnh tranh ngày càng lành mạnh ở Việt Nam.
Hai là, hiện nay vẫn đang  tồn tại tình trạng độc quyền trong cung ứng thuốc dẫn đến hiện tượng các nhà sản xuất và phân phối nước ngoài liên kết theo chiều dọc. Các nhà sản xuất chỉ định và phối hợp với các công ty phân phối trung gian khép kín, mà các công ty khác không thể tham gia, đó là, nhà SX đa quốc gia => Công ty phân phối tại nước ngoài  =>  Công ty nhập khẩu trong nước => Công ty phân phối nước ngoài tại Việt Nam => Công ty phân phối Việt Nam => Cơ sở điều trị/ nhà thuốc. Các thành viên của liên kết dọc này có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, không để các công ty phân phối khác tham gia hoặc tiếp cận nguồn cung các loại thuốc họ đang độc quyền phân phối.
Ngoài ra họ cũng ấn định giá thuốc  thông qua việc quyết định giá bán buôn, bán lẻ ở mức rất cao ngay từ nước ngoài.
Thỏa thuận phân chia thị trường: hình thành mạng lưới phân phối độc lập, ngầm định phân phối cho các dòng sản phẩm khác nhau.
Thỏa thuận hạn chế và kiểm soát số lượng: Vì mục tiêu lợi nhuận cao, cả hệ thống từ sản xuất đến phân phối của các công ty đa quốc gia chỉ tập trung phân khúc thị trường ở thành thị chấp nhận giá cao, do đó, tự nguyện hạn chế nguồn cung để giữ giá.
Liên minh châu Âu cho phép cạnh tranh trong cùng một nhãn hiệu (intra-brand) bằng thương mại song song (cùng một nhãn hiệu được bán từ quốc gia này sang quốc gia khác qua nhiều nguồn khác nhau) giúp kiểm soát giá trong nước. Nhập khẩu song song là giải pháp hữu ích cần tăng cường để giảm giá thành thuốc.
Kinh nghiệm từ Vương quốc Anh (UK): Hãng dược phẩm Pfizer liên kết hàng dọc sử dụng Unichem làm nhà phân phối độc quyền, thỏa thuận trực tiếp với các nhà thuốc bán lẻ và sử dụng dịch vụ hậu cần của một số đại lý độc quyền nhằm kiểm soát giá cả và hạn chế nhập khẩu song song[4].
Bài học rút ra ở nước ta cần có biện pháp tránh các dạng liên kết hàng dọc (Nhà SX đa quốc gia => Công ty phân phối ở nước ngoài => Công ty nhập khẩu trong nước => Công ty phân phối nước ngoài tại Việt Nam => Cơ sở điều trị/ nhà thuốc.)
Ba là, về tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh
          Theo Luật Cạnh tranh năm 2004 và Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh, Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh , cơ quan quản lý cạnh tranh là Cục Quản lý cạnh tranh - tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cạnh tranh; còn Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập, có chức năng xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh.
          Nếu xét dưới giác độ tố tụng cạnh tranh, thì Cục Quản lý cạnh tranh như cơ quan khởi xướng vụ việc. Nếu không có hồ sơ khiếu nại vụ việc, hoặc cơ quan quản lý cạnh tranh không phát hiện có dấu hiệu vi phạm cạnh tranh thì có lẽ, Hội đồng Cạnh tranh cũng không thể phát huy hết chức năng của mình, hay nói cách khác, chức năng của Hội đồng Cạnh tranh có thể xem như là “chức năng phái sinh” từ chức năng của Cục Quản lý cạnh tranh.
Bất cứ một quá trình tố tụng nào, cho dù là hoạt động tư pháp hay hành chính, công tác điều tra đóng vai trò hết sức quan trọng, góp phần quyết định chất lượng kết quả của hoạt động xét xử, hay xử lý vụ việc trong tố tụng cạnh tranh. Khả năng chuyên môn, ý thức trách nhiệm, đạo đức nghiệp của điều tra viên sẽ làm cho kết quả điều tra “tiệm cận” với sự thật, mang tính khách quan hay mang tính chủ quan áp đặt của người tiến hành điều tra. Các quy định pháp luật về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền đều đưa ra các con số tương đối: “Nếu có thị phần từ 30% trở lên”, “tổng thị phần từ 50% trở lên thị trường liên quan”, “tổng thị phần từ 65% trở lên thị trường liên quan”, “tổng thị phần từ 75% trở lên thị trường liên quan” hoặc như trong tập trung kinh tế “chiếm trên 50% trên thị trường liên quan”.
Các nhà khoa học thống kê đã xác định rằng, độ chính xác của kết quả điều tra thống kê phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó:
(i) Sai số do đăng ký, trong đó có:
- Sai số ngẫu nhiên là những sai số phát sinh một cách tình cờ, không có chủ định, không có bất kỳ sự sắp đặt trước nào của người điều tra, nó xảy ra hoàn toàn ngẫu nhiên. Loại sai số này chịu sự chi phối của quy luật số lớn, tức là nếu chúng ta điều tra càng nhiều đơn vị, các sai lệch ngẫu nhiên sẽ có khả năng bù trừ, triệt tiêu nhau làm cho sai số chung càng nhỏ;
- Sai số có hệ thống, có chủ định thường xảy ra do chủ định của người điều tra, người trả lời hoặc sai số một cách có hệ thống do lỗi của hệ thống đo lường, hệ thống thang đo được thiết kế không chuẩn xác,… Loại sai số này không chịu sự chi phối của quy luật số lớn, nên càng điều tra nhiều, khả năng xảy ra sai số càng lớn.
(ii) Sai số do tính đại diện chỉ xảy ra trong điều tra chọn mẫu. Nguyên nhân là do trong các cuộc điều tra này, người ta chỉ chọn một số đơn vị để điều tra thực tế. Các đơn vị này không đủ đảm bảo đại diện cho toàn bộ tổng thể, nên phát sinh sai số, ngay cả trong trường hợp lựa chọn số đơn vị để điều tra được thực hiện một cách hoàn toàn ngẫu nhiên.
Nói một cách chung nhất, sai số của kết quả điều tra là tất yếu, phụ thuộc vào tính chủ quan của người điều tra, thể hiện qua dung lượng mẫu, đặc trưng mẫu.
          Như vậy, việc điều tra, xác định “các ngưỡng” của các con số tương đối trên rất khó chính xác. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh chỉ xem xét dựa trên kết quả điều tra, chứ không thể biết được mức độ tin cậy của các số liệu điều tra. Tất nhiên, các điều tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình, đồng thời còn chịu sự ràng buộc bởi thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; song nếu như Hội đồng Cạnh tranh được tham gia từ giai đoạn đầu của quá trình điều tra, thì kết quả điều tra sẽ rút ngắn hơn và “tự tin” hơn với quyết định xử lý vụ việc của mình.
Một vấn đề cũng cần đặt ra là, mối quan hệ giữa Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh với điều tra viên, khi pháp luật quy định: “Điều tra viên vụ việc cạnh tranh phải tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu bằng văn bản của Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh”. Trong quan hệ pháp luật hành chính, có thể xảy ra mối quan hệ trực tiếp này không? Vì điều tra viên là công chức thuộc Cục Quản lý cạnh tranh và điều tra viên thực hiện nhiệm vụ cạnh tranh cụ thể theo quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh. Thiết nghĩ, nội dung này, khoản 1 Điều 96 Luật Cạnh tranh năm 2004 cần được sửa đổi theo hướng: “Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh phân công điều tra viên vụ việc cạnh tranh phải tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu bằng văn bản của Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh”, nếu như về mặt tổ chức, cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh vẫn không có gì thay đổi như quy định pháp luật hiện hành.
Như vậy, có thể thấy rằng, Hội đồng Cạnh tranh như cơ quan thực hiện thẩm quyền “tài phán cạnh tranh” của cơ quan hành chính nhà nước, thể hiện qua hoạt động của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và bằng chính hoạt động của mình qua thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh chưa có hiệu lực pháp luật của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Việc tách bạch thẩm quyền khởi xướng vụ việc, điều tra với hoạt động xử lý theo pháp luật thực định, có lẽ nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan, độc lập giữa các hoạt động điều tra và xử lý. Tuy nhiên, công tác điều tra luôn chịu sự chi phối theo ý chí của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc Hội đồng Cạnh tranh sau khi kết thúc điều tra, trong phiên điều trần và cả trong khi giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, nên sự độc lập, khách quan đó cũng chỉ dừng ở mức độ tương đối.
Về vấn đề này, có thể học tập từ kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp, trước đây công tác điều tra và xét xử trên lĩnh vực cạnh tranh vốn tách biệt ở 2 cơ quan: Tổng cục Cạnh tranh, tiêu dùng và trấn áp gian lận (DGCCRF) và Hội đồng Cạnh tranh (FCC). Luật LME (Luật về Hiện đại hoá nền kinh tế), thông qua ngày 04/8/2008 đã chuyển Hội đồng Cạnh tranh Pháp thành Cơ quan tối cao về cạnh tranh. Cơ quan cạnh tranh của Pháp từ nay sẽ hoạt động trong sự thống nhất tất cả các hoạt động điều tiết cạnh tranh (từ điều tra, chống độc quyền, kiểm soát tập trung, cho tới ra khuyến nghị và ra quyết định cho hưởng miễn trừ…).
Nếu theo mô hình này, có thể sáp nhập Cục Quản lý cạnh tranh với Hội đồng Cạnh tranh thành Cơ quan Tối cao về cạnh tranh, hoặc là Cơ quan cạnh tranh tối cao hoặc là một tên gọi khác, thì cơ quan này phải trực thuộc Chính phủ, không trực thuộc Bộ Công Thương như Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay, có đầy đủ thẩm quyền của hai tổ chức hiện có. Điều đó, sẽ giải quyết được một số hạn chế như đã nêu, thúc đẩy quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh theo thẩm quyền cơ quan hành chính nhanh chóng, kịp thời.
Bốn là, về xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh
Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý như sau:
(i) Chịu một trong các hình thức xử phạt chính: Cảnh cáo hoặc phạt tiền;
(ii) Có thể tiếp tục bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt bổ sung sau: Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh;
(iii) Có thể bị áp dụng một trong các biện pháp khắc phục hậu quả (biện pháp khắc phục hậu quả) sau đây: Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua; cải chính công khai; loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm.
Theo điểm đ khoản 3 Điều 117 Luật Cạnh tranh năm 2004, quy định các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm: “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.”. Nội dung này, theo tác giả, về bản chất quy định này không thuộc biện pháp khắc phục hậu quả, bởi lẽ, biện pháp khắc phục hậu quả do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước áp dụng mang tính cưỡng chế nhà nước, được áp dụng nhằm khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra, bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng và hoạt động bình thường của xã hội. Do vậy, nên tách nội dung trên thành điều luật riêng, không thể đặt chung với khoản 3 Điều 117 Luật Cạnh tranh năm 2004.
Nghiên cứu quy định các biện pháp khắc phục hậu quả tại khoản 1[5] Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, cho thấy, hoàn toàn không có các biện pháp khắc phục hậu quả như quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 Điều 117 Luật Cạnh tranh năm 2004:
a) Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường;
b) Chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua;
d) Loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh;
Do vậy, theo tác giả, trong lần sửa đổi, bổ sung Luật Cạnh tranh sắp tới, rất cần nghiên cứu sự bất cập, không đồng bộ này trong hệ thống pháp luật hiện nay.
Phạm Thị Hồng Đào 
 
[1] Các Hiệp ước Roma là 2 hiệp ước của Liên minh châu Âu được 6 nước Pháp, Tây Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg ký kết ngày 25/3/1957 tại Roma, Ý. Hiệp ước thứ nhất thiết lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và hiệp ước thứ hai thiết lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EAEC hoặc Euratom). Đây là các tổ chức quốc tế đầu tiên dựa trên chủ nghĩa siêu quốc gia. Các hiệp ước này có hiệu lực từ ngày 01/01/1958. Hiệp ước Cộng đồng Kinh tế châu Âu sau đó đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần.
 
[2] Danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo năm gia nhập. 
• 1952: Bỉ, Đức, Italy, Luxembourg, Pháp, Hà Lan ;
• 1973: Đan Mạch, Ireland, Anh ;
• 1981: Hy Lạp ;
• 1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha ;
• 1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển ;
• Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta, Cộng hòa Síp ;
• Ngày 1/1/2007: Romania, Bulgaria .
[3] Đào Ngọc Báu - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (số 10-2015)
[4]http://tinbaihay.net/quan-ly-canh-tranh-trong-phan-phoi-duoc-pham-bai-hoc-kinh-nghiem/post-13490948098685390974.htm
 
[5] Điều 28. Các biện pháp khắc phục hậu quả và nguyên tắc áp dụng
1. Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
b) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
c) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;
d) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
đ) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại;
e) Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn;
g) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
h) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng;
i) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật;