Luật luật sư năm 2012 và những quy định cần hoàn thiện

01/12/2016
Xã hội ngày càng phát triển, càng phát sinh thêm nhiều mối quan hệ giữa công dân với công dân, giữa công dân với các cơ quan, tổ chức và giữa các cơ quan, tổ chức với nhau. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh mâu thuẫn, ảnh hưởng đến quyền lợi của mỗi bên. Với tư cách là Luật sư, người am hiểu pháp luật và kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, luật sư là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức có hiệu quả nhất tại Tòa án. Luật sư góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng trên cơ sở các quy định của pháp luật, qua đó vị thế của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao. Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012 – viết tắt Luật Luật sư năm 2012), đã có hiệu lực thi hành hơn 03 năm qua. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cùng với quá trình phát triển của đất nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nghề luật sư đã có những bước thăng trầm lịch sử. Pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam cũng dần được hoàn thiện, tuy đã có đóng góp tích cực cho sự phát triển của nghề luật sư nhưng vẫn còn một bất cập gây khó khăn cho hoạt động hành nghề luật sưnói chung. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến những vướng mắc từ quy định của Luật Luật sư hiện hành và đề xuất vấn đề hoàn thiện để tạo sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, điều chỉnh nội dung này.
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 27 Luật Luật sư năm 2012 về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư, mà theo đó, tại các khoản 2, 3, 4 của Điều này, quy định:
“2. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng của luật sư, trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa. Giấy chứng nhận người bào chữa có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ chối hoặc yêu cầu thay đổi luật sư hoặc luật sư không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư xuất trình các giấy tờ sau đây:
a) Thẻ luật sư;
b) Giấy yêu cầu luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc của người khác hoặc văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân trong trường hợp tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp thực hiện trợ giúp pháp lý.

Chậm nhất là ba ngày làm việc hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ, kể từ khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư, trong đó cho phép người tập sự hành nghề luật sư tham gia vụ việc (nếu có); trong trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật tố tụng.
Khi cần liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức để thực hiện quyền, nghĩa vụ và các hoạt động có liên quan đến việc bào chữa trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và Giấy chứng nhận người bào chữa của luật sư.
4. Luật sư chỉ bị từ chối cấp Giấy chứng nhận người bào chữa khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất từ chối luật sư;
b) Luật sư là người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó;
c) Luật sư đã tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch;
d) Luật sư là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định, trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa. Vấn đề này, tại các khoản 2, 3, 4 Điều 78 BLTTHS năm 2015, quy định:
“2. Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ:
a) Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội;
b) Người đại diện của người bị buộc tội xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và giấy tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ của họ với người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
d) Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực.
3. Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 76 của Bộ luật này thì người bào chữa xuất trình các giấy tờ:
a) Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề là cá nhân;
b) Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
c) Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
4. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.”
Nếu thuộc một trong những trường hợp phải từ chối việc đăng ký bào chữa theo quy định tại khoản 5; hủy bỏ việc đăng ký bào chữa theo khoản 7 Điều 78 Bộ luật này, thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ chối hoặc hủy bỏ việc đăng ký bào chữa và thông báo cho người bào chữa biết.
Riêng đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, Điều 84 BLTTHS năm 2015 tuy có quy định về đối tượng; quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự khi tham gia tố tụng. Nhưng không quy định thủ tục xuất trình bắt buộc đối với chủ thể này, nhất là luật sư khi làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Vậy, có thể vận dụng quy định có liên quan về luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 được không?
Khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2015 có quy định: “Để được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Giấy chứng minh nhân dân hoặc Thẻ căn cước công dân.
Như vậy, nếu so với quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27 Luật Luật sư năm 2012, quy định về người bào chữa của BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung theo hướng thông thoáng hơn, rút ngắn thời gian hơn. Mà theo đó, đã bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận bào chữa thay vào đó là thủ tục đăng ký bào chữa; thời gian được cấp Giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư rút xuống còn trong hạn 24 giờ (so với trước đây 03 ngày làm việc hoặc 24 giờ đối với người bị tạm giữ). Đồng thời, cơ quan tiến hành tố tụng đã đăng ký bào chữa có trách nhiệm thông báo cho luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp biết về việc đăng ký bào chữa của luật sư đó, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng ở các giai đoạn sau, điều này đã giảm đi thủ tục mà lâu nay luật sư – người bào chữa phải làm, đó là, ở mỗi gian đoạn kế tiếp, người bào chữa phải nộp cho cơ quan tiến hành tố tụng: Giấy đăng ký bào chữa (do Tổ chức hành nghề luật sư của luật sư đó cấp), bản sao Thẻ luật sư và Giấy chứng nhận bào chữa.
Ngoài ra, nếu rơi vào trường hợp thuộc quy định tại điểm a khoản 4 Điều 27 Luật Luật sư năm 2012, thì luật sư bị cơ quan tiến hành tố tụng từ chối cấp Giấy chứng nhận bào chữa. Nhưng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 77 BLTTHS năm 2015, một trong những đối tượng có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa, là người bị buộc tội. Tuy nhiên, theo điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bi can, bị cáo.
Do đó, để đồng bộ và thống nhất giữa các quy định liên quan đến người bào chữa giữa Luật Luật sư năm 2012 với BLTTHS năm 2015, theo tác giả, cũng cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư hiện hành sao cho phù hợp, tương thích các nội dung vừa đề cập.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, điểm a khoản 4 Điều 75 BLTTDS năm 2015, quy định: “4. Khi đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đề nghị phải xuất trình các giấy tờ sau đây: a) Luật sư xuất trình các giấy tờ theo quy định của Luật luật sư;”. Sau khi kiểm tra giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định, thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trường hợp từ chối đăng ký thì Tòa án phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đề nghị.
Trong lĩnh vực tố tụng hành chính, theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 61 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:4. Khi đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đề nghị phải xuất trình các giấy tờ sau đây: a) Luật sư phải xuất trình các giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật luật sư;
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 5 Điều này, sau khi kiểm tra giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 61 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trường hợp từ chối đăng ký thì Tòa án phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đề nghị.
Như vậy, các quy định có liên quan đền người bào vệ quyền lợi của đương sự theo BLTTDS năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định khác so với quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Luật sư năm 2012, đó là, nhà làm luật đã bỏ quy định việc cấp Giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng của luật sư, mà thay vào đó, là thủ tục Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Sửa đổi này cũng giúp cho luật sư giảm đi áp lực về thủ tục giấy tờ phải nộp cho Tòa án khi tham gia tố tụng vụ, việc đó ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Để pháp luật được thống nhất và đồng bộ, tác giả đề xuất khi sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012 sắp tới, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng cần lưu ý vấn đề vừa nêu.
Thứ hai: Vấn đề chuyển đổi hình thức hoạt động của văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh sang công ty luật trách nhiệm hữu hạn
Theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật Luật sư năm 2012: “Tổ chức hành nghề luật sư được tổ chức, hoạt động theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.”. Tiếp theo, khoản 1 Điều 33 Luật Luật sư năm 2012, quy định:“ Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân.”; Điều 34 Luật này quy định về công ty luật, như sau:
“1. Công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Thành viên của công ty luật phải là luật sư.
2. Công ty luật hợp danh do ít nhất hai luật sư thành lập. Công ty luật hợp danh không có thành viên góp vốn.
3. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
…”
Ngoài ra, tại Điều 36 Luật Luật sư năm 2012 có quy định việc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hàng nghề luật sư. Nghị định 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, mà theo đó, Điều 15 của Nghị định này quy định việc chuyển đổi văn phòng luật sư thành công ty luật, được quy định như sau:
“1. Văn phòng luật sư có thể chuyển đổi thành công ty luật trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty luật hợp danh trên cơ sở kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ của văn phòng luật sư theo quy định của pháp luật.
2. Hồ sơ chuyển đổi văn phòng luật sư được gửi đến Sở Tư pháp nơi công ty luật đăng ký hoạt động. Hồ sơ gồm có:
a) Giấy đề nghị chuyển đổi trong đó nêu rõ mục đích, lý do chuyển đổi và cam kết về việc kế thừa toàn bộ quyn, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của văn phòng luật sư được chuyển đổi;
b) Dự thảo Điều lệ của công ty luật chuyển đổi;
c) Giấy đăng ký hoạt động của văn phòng luật sư được chuyển đổi;
d) Danh sách thành viên hoặc luật sư chủ sở hữu; bản sao Thẻ luật sư của luật sư chủ sở hữu hoặc các luật sư thành viên của công ty luật chuyn đổi;
đ) Bản sao giấy tờ chứng minh về trụ sở trong trường hợp có thay đổi về trụ sở.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động cho công ty luật chuyển đổi; trường hp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Thủ tục công bố nội dung đăng ký hoạt động của công ty luật chuyển đổi được thực hiện theo quy định tại Điều 38[1] của Luật luật sư.
Tuy nhiên, theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về áp dụng Luật doanh nghiệp và các luật chuyên ngành, như sau:Trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của Luật đó.. Quy định này là phù hợp với đặc thù loại hình hoạt động của một số ngành nghề, như: Luật sư, công chứng, giám định tư pháp ngoài công lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di sản, bản quyền tác giả. Bởi thực chất các loại hình hoạt động vừa nêu không mang tính chất kinh doanh. Mà doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh được thành lập nhưng hoạt động không vì mục đích kinh doanh, thì không là doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh. Bởi, theo khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014: Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.. Ngoài ra, khoản 16 của Điều này có giải thích thuật ngữ kinh doanh, mà theo đó, kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Vấn đề đặt ra là quy định này có thực sự phù hợp với thực tiễn và các quy định khác của pháp luật có liên quan hay không? Đó là việc văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh khi làm thủ tục chuyển đổi sang công ty luật trách nhiệm hữu hạn hiện nay đang vướng nhiều trở ngại, cụ thể:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật Luật sư năm 2012, trước thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư (văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh) phải thực hiện:
i). Thông báo bằng văn bản cho Sở Tư pháp, Đoàn luật sư ở địa phương nơi đăng ký hoạt động và nơi có trụ sở của chi nhánh;
ii). Nộp đủ số thuế còn nợ; thanh toán xong các khoản nợ khác; làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với luật sư, nhân viên của tổ chức hành nghề luật sư; thực hiện xong các hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng. Trong trường hợp không thể thực hiện xong hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng thì phải thỏa thuận với khách hàng về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đó.
Tuy nhiên, sau khi chấm dứt hoạt động văn phòng luật sư hoặc công ty luật hợp danh, dù có điều kiện thuận lợi đến mấy thì cũng phải mất một khoảng thời gian nhất định, công ty luật trách nhiệm hữu hạn mới được Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động. Vấn đề đặt ra là nếu đúng vào giai đoạn pháp nhân cũ đã chấm dứt hoạt động, pháp nhân mới chưa được cấp Giấy đăng ký hoạt động mà xảy ra tranh chấp về hợp đồng dịch vụ pháp lý thì sẽ giải quyết thế nào? Hoặc là, đúng vào thời điểm đó, khách hàng yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư tham gia đàm phán với một đối tác khác của khách hàng thì luật sư sẽ làm việc với tư cách của pháp nhân cũ (đã chấm dứt hoạt động) hay với tư cách của pháp nhân mới (chưa ra đời)?… Vì vậy, chắc chắn sẽ không khách hàng nào muốn tổ chức hành nghề luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho mình lại không có địa vị pháp lý nào cả!. Và cũng chính vì lẽ đó mà các văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh rất ngại phải đàm phán với khách hàng của mình về việc chấm dứt hoạt động để chuyển đổi sang công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Đặc biệt, đối với các khách hàng nước ngoài thì đàm phán, giải thích việc tổ chức hành nghề luật sư phải chấm dứt hoạt động để chuyển đổi sang một loại hình hoạt động khác sẽ khó khăn hơn nhiều lần so với các đối tác trong nước.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 5 Điều 34 Luật Luật sư năm 2012: “Tên của công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do các thành viên thỏa thuận lựa chọn, tên của công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên do chủ sở hữu lựa chọn và theo quy định của Luật doanh nghiệp nhưng phải bao gồm cụm từ “công ty luật hợp danh” hoặc “công ty luật trách nhiệm hữu hạn”, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề luật sư khác đã được đăng ký hoạt động, không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.”
Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 32 của Luật này còn quy định: “Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một tổ chức hành nghề luật sư. Trong trường hợp luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập một công ty luật thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký hoạt động tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành viên.”
Như vậy, khi chưa chấm dứt hoạt động, đại diện theo pháp luật của văn phòng luật sư hoặc công ty luật hợp danh không thể đứng tên đăng ký hoạt động công ty luật trách nhiệm hữu hạn và cũng không thể sử dụng đúng tên của tổ chức mình. Do đó, nhiều tổ chức đã đối phó với quy định này bằng cách thực hiện các bước như sau: 
Bước 1, đổi tên văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh và tạm thời “nhờ” một luật sư khác làm đại diện theo pháp luật cho tổ chức được đổi tên; 
Bước 2, đăng ký hoạt động công ty luật trách nhiệm hữu hạn với tên gọi và đại diện theo pháp luật như của văn phòng luật sư hoặc công ty luật hợp danh; 
Bước 3, làm thủ tục chấm dứt hoạt động văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh đã đổi tên.
Thực tế này cho thấy, sự vòng vo, rắc rối, tốn kém, không đúng với chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ mà còn có thể dẫn đến những rủi ro cho luật sư là đại diện theo pháp luật của văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh muốn chuyển đổi sang công ty luật trách nhiệm hữu hạn.
Một bất cập nữa, đó là, theo quy định tại Điều 33 và 34 của Luật Luật sư năm 2012, việc chuyển đổi hình thức hoạt động từ văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh sang công ty luật trách nhiệm hữu hạn, xét về mặt cơ chế chịu trách nhiệm, thực chất là chuyển đổi từ chế độ tổ chức hành nghề luật sư phải chịu trách nhiệm vô hạn sang chế độ phải chịu trách nhiệm hữu hạn. Nói cách khác, sự chuyển đổi này cũng tương tự như chuyển đổi từ doanh nghiệp tư nhân sang công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về áp dụng Luật doanh nghiệp và các luật chuyên ngành, như sau:Trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của Luật đó.. Nghĩa là, việc chuyển đổi hiện nay đối với các tổ chức hành nghề luật sư, phải tuân thủ theo quy định của Luật Luật sư năm 2012; Nghị định 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư; Thông tư 17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011 của Bộ Tư pháp, hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư, Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư (viết tắt Thông tư 17/2011/TT-BTP). Đáng chú ý là quy định tại Điều 15[2] Nghị định 123/2013/NĐ-CP với Điều 8[3] Thông tư 17/2011/TT-BTP, có độ “vênh” về thủ tục, đó là:
Nếu theo quy định tại Điều 15 Nghị định 123/2013/NĐ-CP, giấy tờ trong hồ sơ chuyển đổi: Giấy đề nghị chuyển đổi trong đó nêu rõ mục đích, lý do chuyển đổi và cam kết về việc kế thừa toàn bộ quyn, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của văn phòng luật sư được chuyển đổi
Còn theo Điều 8 Thông tư 17/2011/TT-BTP, giấy tờ trong hồ sơ chuyển đổi: Giấy đề nghị đăng ký hoạt động công ty luật trách nhiệm hữu hạn (theo mẫu ban hành kèm theo quy định tại Điều 36 của Thông tư này), nhưng hệ thống mẫu này hiện đã hết hiệu lực từ ngày 05/3/2015 và được thay thế bởi hệ thống mẫu mới ban hành kèm theo Thông tư 02/2015/TT-BTP ngày 16/01/2015 của Bộ Tư pháp, quy định một số mẫu giấy tờ về luật sư và hành nghề luật sư. Như trong hệ thống mẫu mới này, qua rà soát, tác giả không tìm thấy Giấy đề nghị chuyển đổi trong đó nêu rõ mục đích, lý do chuyển đổi và cam kết về việc kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của văn phòng luật sư được chuyển đổi (theo quy định tại Điều 15 Nghị định 123/2013/NĐ-CP), nên đây sẽ là “vướng mắc” về thủ tục khi tổ chức hành nghề luật sư muốn chuyển đổi từ văn phòng luật sư thành công ty luật TNHH.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 8 Thông tư 17/2011/TT-BTP, hồ sơ còn có bản cam kết của người đứng đầu công ty luật trách nhiệm hữu hạn về việc kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ của văn phòng luật sư. Theo tác giả, sẽ là hợp lý hơn, nếu bản cam kết nội dung đó do Trưởng văn phòng luật sư với tư cách chủ doanh nghiệp tư nhân, chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả các khoản nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp tư nhân và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn. Bởi suy cho cùng, cơ chế chịu trách nhiệm của doanh nghiệp tư nhân – văn phòng luật sư là vô hạn, nên bản cam kết chịu mọi trách nhiệm giải quyết quyền và nghĩa vụ liên quan khi chuyển đổi phải là của văn phòng luật sư đó.
Tham khảo quy định tại khoản 1 Điều 199 Luật Doanh nghiệp năm 2014 về chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn, mà theo đó:
1. Doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân nếu đủ các điều kiện sau đây:
a) Có đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1[4] Điều 28 của Luật này;
b) Chủ doanh nghiệp tư nhân phải là chủ sở hữu công ty (đối với trường hợp chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu) hoặc thành viên (đối với trường hợp chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên);
c) Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả các khoản nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp tư nhân và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn;
d) Chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty trách nhiệm hữu hạn được chuyển đổi tiếp nhận và thực hiện các hợp đồng đó;
đ) Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản hoặc có thỏa thuận bằng văn bản với các thành viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba: Quy định về điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư
Điểm a khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư năm 2012, quy định một trong những điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư: “Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất 2 năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật này”. So với Luật Luật sư năm 2006 thì đây là quy định hoàn toàn mới mang tính ràng buộc điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư.
Quy định này sẽ rất cần thiết đối với những đối tượng bắt buộc phải qua khóa đào tạo luật sư và phải trải qua thời gian tập sự hành nghề luật sư. Tuy nhiên, với những người đã từng là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, giảng viên chuyên ngành luật… đã có nhiều năm công tác, có kiến thức, kinh nghiệm lâu năm về về pháp luật thì quy định này là khá cứng nhắc.
Cũng theo quy định này, luật sư trong thời gian liên tục làm việc ít nhất hai năm cho tổ chức hành nghề luật sư sẽ không bị hạn chế về số lượng hợp đồng lao động mà họ được tham gia ký kết với các tổ chức hành nghề luật sư, miễn là với tư cách là người lao động, họ thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ đã cam kết với tổ chức hành nghề luật sư. Điểm a khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư năm 2012, quy định “nghiêm cấm luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, vì pháp luật không quy định theo hướng khống chế số lượng hợp đồng lao động luật sư được ký kết, nên sẽ là “kẽ hở” của pháp luật, tạo nên vướng mắc khi vận dụng vào thực tiễn.
Từ thực tế đó, để tránh những vướng mắc có thể xảy ra, sắp tới khi sửa đổi Luật Luật sư để bảo đảm tính thống nhất và tương thích với một số luật, bộ luật mà Quốc hội khóa XIII đã thông qua tại kỳ họp thứ 10, thì điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư hiện hành cần được sửa đổi theo hướng loại trừ những trường hợp buộc phải có thời gian ít nhất hai năm liên tục làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức; quy định hạn chế việc luật sư cùng một lúc ký kết nhiều hợp đồng lao động với các tổ chức hành nghề luật sư, nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của khách hàng mà tổ chức hành nghề luật sư đó đã thỏa thuận.
Thứ tư: Quy định về chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
Khoản 3 Điều 47 Luật Luật sư năm 2012 quy định: “Trong trường hợp chấm dứt hoạt động theo quy định tại điểm b[5] và điểm c[6] khoản 1 Điều này thì trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày thu hồi Giấy đăng ký hoạt động, Chứng chỉ hành nghề luật sư, Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với Đoàn luật sư, cơ quan thuế ở địa phương nơi đăng ký hoạt động và nơi có trụ sở của chi nhánh về việc thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, Chứng chỉ hành nghề luật sư.”
Theo quy định này, Sở Tư pháp chỉ có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với Đoàn luật sư, cơ quan thuế ở địa phương nơi đăng ký hoạt động và nơi có trụ sở của chi nhánh về việc thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, Chứng chỉ hành nghề luật sư, mà không có quy định rõ ràng nào về việc chịu trách nhiệm thực hiện quyết định thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hàng nghề luật sư đó. Phải chăng đây là một “kẻ hỡ” của luật[7].
Mặt khác, có thể nhận thấy, khoản 3 Điều 47 Luật Luật sư năm 2012 đang có sự “đồng nhất” giữa chấm dứt tư cách hành nghề của cá nhân (thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư) với chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư (thu hồi Giấy đăng ký hoạt động. Trong khi đó, theo khoản 4 Điều 35 Luật Luật sư năm 2012, tổ chức hành nghề luật sư hoạt động hợp pháp kể từ khi được cấp Giấy đăng ký hoạt động (Sở Tư pháp cấp); Giấy chứng nhận đăng ký mã số thuế (cơ quan thuế cấp) và Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu (cơ quan công an cấp). Tổ chức này chỉ được xem là đã chính thức chấm dứt hoạt động khi được cơ quan thuế đồng ý đóng mã số thuế, hoàn trả con dấu cho cơ quan công an và cuối cùng là nộp lại Giấy đăng ký hoạt động cho Sở Tư pháp.
Rõ ràng, việc chấm dứt tư cách hành nghề của cá nhân do bị thu hồi Chứng chỉ HNLS không thể tự bản thân nó làm chấm dứt hoạt động của một tổ chức. Ngay cả khi Sở Tư pháp cho rằng, căn cứ theo Luật Luật sư, tổ chức hành nghề đó đương nhiên chấm dứt và bản thân Sở không thừa nhận sự tồn tại có tính pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư thì các cơ quan nhà nước khác (thuế, công an…) vẫn mặc nhiên coi tổ chức đó đang tồn tại hợp pháp, vì tổ chức này chưa thực hiện các thủ tục để các cơ quan có thẩm quyền chấp nhận việc chấm dứt hoạt động. Vì vậy, chiếu theo các quy định hiện hành của Luật Luật sư, sự chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư chỉ được xem là “một nửa” của sự chấm dứt mà thôi. Mà “một nửa” của sự chấm dứt thì không là sự chấm dứt đúng nghĩa của nghĩa “đen” lẫn nghĩa “bóng”!
Việc không thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư  trong trường hợp này có thể để lại hệ quả khó lường, các cơ quan quản lý nhà nước không kiểm soát được hoạt động của những tổ chức này trong thực tế, các doanh nghiệp, cá nhân vẫn có thể giao dịch với những tổ chức này để rồi các cơ quan chức năng sẽ phải đi giải quyết những hệ lụy của những giao dịch đó để lại.
Tại Điều 11 của Thông tư số 17/2011/TT-BTP. Theo đó, Sở Tư pháp sẽ thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức HNLS bị chấm dứt hoạt động trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Luật sư. Trong một chừng mực nhất định, thông tư này đã giải quyết tình huống pháp lý cho Sở Tư pháp, trao quyền cho cơ quan này được thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư do luật sư thành lập tổ chức đó bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư, nhưng cũng dễ nhận thấy rằng, nội hàm của quy phạm pháp luật trong thông tư này đã vượt quá những quy định của Luật Luật sư năm 2012. Luật không có quy định tại điều khoản nào Sở Tư pháp có quyền thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, nhưng Thông tư 17/2011/TT-BTP lại trao cho Sở tư pháp có quyền này. Điều này dễ gây ra hiểu nhầm, Thông tư có giá trị pháp lý “cao hơn” luật!
Tương tự như vậy, việc thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư, theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Luật sư năm 2012 cũng đang “vướng”. Bởi, Thông tư 17/2011/TT-BTP, mà theo đó, tại Điều 3 của Thông tư này có quy định cấp có thẩm quyền ra quyết định việc thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư, Thẻ luật sư cũng như trách nhiệm thu hồi; cách thức tiêu hủy chứng chỉ hành nghề luật sư, Thẻ luật sư;… Tuy nhiên, đây là Thông tư được ban hành khi Luật Luật sư năm 2006 chưa được sửa đổi, bổ sung. Dù nội dung quy định tại Điều 47 Luật Luật sư năm 2006 vẫn không thay đổi so với nội dung quy định tại Điều 47 Luật Luật sư năm 2012. Thiết nghĩ, Bộ Tư pháp cần ban hành văn bản hợp nhất về nội dung vừa nêu, để có căn cứ pháp lý khi vận dụng các quy định này.
Theo quy định hiện hành, khi bị chấm dứt hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư phải thoả thuận với khách hàng về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với họ nhưng chưa thực hiện xong. Luật chỉ quy định phải thỏa thuận với khách hàng, còn việc các bên có thỏa thuận được với nhau hay không thì Luật không đề cập đến cũng như không quy định về trách nhiệm liên đới của (những) luật sư thành lập tổ chức đó sau khi chấm dứt hoạt động.
Sự thỏa thuận giữa các bên có thể dẫn đến những kết quả sau:
i). Các bên đồng ý chấm dứt và thanh lý hợp đồng dịch vụ pháp lý; hoặc
ii). Các bên đồng ý ký lại hợp đồng dịch vụ pháp lý với tổ chức hành nghề luật sư khác cùng với cam kết kế thừa các quyền và nghĩa vụ của hợp đồng đã ký; hoặc
iii). Các bên không thống nhất, không thể đi đến một thỏa thuận nào đó.
Nếu các bên không đạt được thống nhất nào và xảy ra tranh chấp về quyền lợi thì hậu quả pháp lý của tranh chấp này, thực tế hiện Luật Luật sư năm 2012 còn “bỏ ngỏ”. Lúc này, bên khách hàng, bằng con đường tố tụng, có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của họ. Nếu bên khách hàng khởi kiện ra Tòa, Tòa án thụ lý theo đúng thẩm quyền và thủ tục tố tụng, bên bị đơn thông báo với Tòa về việc đã chấm dứt hoạt động theo quy định của Luật Luật sư năm 2012,thì Tòa án, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 217 của BLTTDS năm 2015 có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì cơ quan, tổ chức đã bị giải thể mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.
Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 218 BLTTDS năm 2015, nguyên đơn không có quyền khởi kiện lại, tiền tạm ứng phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước. Tức là, bên khách hàng mất quyền khởi kiện, mất luôn tiền tạm ứng án phí và quan trọng nhất là họ không có một cơ hội nào để yêu cầu pháp luật bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ.
Chính vì không có những quy định về sự kế thừa quyền và nghĩa vụ khi tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hoạt động nên đã xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng của tổ chức đó và chưa có một cơ chế pháp lý nào bảo vệ quyền lợi bên khách hàng cho đến thời điểm hiện nay. Ngoài ra, tại Điều 9 Luật Luật sư năm 2012 mới chỉ quy định cấm các hành vi mà luật sư không được thực hiện, chưa có điều khoản nào quy định cấm tổ chức hành nghề luật sư thực hiện một số hành vi khi đã bị chấm dứt hoạt động, ví dụ như cất giấu, tẩu tán tài sản, ký kết hợp đồng mới không phải là hợp đồng nhằm thực hiện giải thể doanh nghiệp tư nhân (văn phòng luật sư);…
Không bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động, không bị cấm thực hiện một số hành vi sau khi bị chấm dứt hoạt động và cũng không phải chịu trách nhiệm dân sự khi bị khởi kiện ra tòa… là những “kẽ hở” pháp lý nghiêm trọng cần được khắc phục khi sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư sắp tới.  
Kiến nghị
Từ những nghiên cứu trên, tác giả đề xuất những nội dung cần xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012 trong thời gian tới, cụ thể:
Một là, khoản 2 Điều 27 Luật Luật sư hiện hành, sau khi sửa đổi, bổ sung được viết lại như sau: Khi đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đươgn sự và xác nhận vào giấy yêu cầu của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.”
-Khoản 3 Điều 27 Luật Luật sư năm 2012, sau khi sửa đổi, bổ sung được viết lại như sau: “3. Khi đăng ký bào chữa, luật sư phải xuất trình các giấy tờ: Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Để được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Giấy chứng minh nhân dân hoặc Thẻ căn cước công dân.
-Khoản 4 Điều 27 sau khi được sửa đổi, viết lại như sau: “4. Luật sư chỉ bị từ chối đăng ký bào chữa khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người bị buộc tội hoặc người đại diện cho người bị buộc tội là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất từ chối luật sư;
b) Luật sư là người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó;
c) Luật sư đã tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch;
d) Luật sư là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Hai là, điểm a khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư hiện hành, sau khi sửa đổi, bổ sung , được viết lại như sau: “Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật này, không bao gồm những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật này, mà thời gian giữ chức danh tố tụng; chức danh chuyên môn hoặc được phong học hàm, học vị ít nhất từ 5 năm trở lên. Trong thời hạn hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động, luật sư chỉ được ký kết hợp đồng lao động với một tổ chức hành nghề luật sư”.
Ba là, Điều 47 Luật Luật sư hiện hành sau khi sửa đổi, bổ sung được viết lại, như sau:
“Điều 47. Thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư
1. Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi khi tổ chức HNLS thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chấm dứt hoạt động theo quy định tại khoản 1 Điều 47 của Luật này;
b) Tổ chức hành nghề luật sư tạm ngừng hoạt động theo quy định tại Điều 46 của Luật này đã quá một năm so với thời hạn được ghi trong báo cáo về việc tạm ngừng hoạt động của tổ chức đó mà không có báo cáo về việc gia hạn tạm ngừng hoạt động.
Trong trường hợp tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, Sở Tư pháp có trách nhiệm thực hiện thủ tục chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật này.
2. Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi theo quy định tại khoản 1 Điều 48 của Luật này.
3.  Trong trường hợp chấm dứt hoạt động theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này thì trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày thu hồi Giấy đăng ký hoạt động, Chứng chỉ hành nghề luật sư, Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với Đoàn luật sư, cơ quan thuế ở địa phương nơi đăng ký hoạt động và nơi có trụ sở của chi nhánh về việc thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, Chứng chỉ hành nghề luật sư.
Trong thời hạn sáu mươi ngày sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động, Chứng chỉ hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề luật sư phải nộp đủ số thuế còn nợ; thanh toán xong các khoản nợ khác; làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với luật sư, nhân viên của tổ chức hành nghề luật sư; đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng nhưng chưa thực hiện xong thì phải thoả thuận với khách hàng về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đó.
Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà Sở Tư pháp không nhận được hồ sơ giải thể tổ chức hành nghề luật sư thì tổ chức hành nghề luật sư đó coi như đã được giải thể và Sở Tư pháp xoá tên tổ chức hành nghề luật sư trong sổ đăng ký hoạt động. Trong trường hợp này, Trưởng Văn phòng luật sư, Giám đốc Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc tất cả các thành viên của Công ty luật hợp danh, thành viên của Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ, các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán và các nghĩa vụ phải thực hiện trong hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng..
4. Tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động phải giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động.”
Bốn là, bổ sung một điều luật mới với nội dung các hành vi bị cấm khi tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hoạt động. Cụ thể:
Điều 48. Các hành vi bị cấm kể từ khi tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hoạt động
Kể từ khi tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hoạt động theo khoản 1 Điều 47 của Luật này, nghiêm cấm tổ chức hành nghề luật sư đó, người quản lý tổ chức hành nghề luật sư thực hiện các hành vi sau đây:
1. Cất giấu, tẩu tán tài sản;
2. Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
3. Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản của tổ chức hành nghề luật sư;
4. Ký kết hợp đồng mới không phải là hợp đồng nhằm thực hiện giải thể tổ chức hành nghề luật sư;
5. Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản;
6. Chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đã có hiệu lực”
 
 Lê Văn Sua
 
[1] Điều 38. Công bố nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
1. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư phải đăng báo hàng ngày của Trung ương hoặc địa phương nơi đăng ký hoạt động hoặc báo chuyên ngành luật trong ba số liên tiếp về những nội dung chính sau đây:
a) Tên tổ chức hành nghề luật sư;
b) Địa chỉ trụ sở của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch;
c) Lĩnh vực hành nghề;
d) Họ, tên, địa chỉ, số Chứng chỉ hành nghề luật sư của luật sư là Trưởng văn phòng luật sư, Giám đốc công ty luật và các thành viên sáng lập khác;
đ) Số Giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng ký hoạt động, ngày, tháng, năm cấp Giấy đăng ký hoạt động.
2. Trong trường hợp thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư phải công bố những nội dung thay đổi đó trong thời hạn và theo phương thức quy định tại khoản 1 Điều này.
[2] Điều 15. Chuyển đổi văn phòng luật sư thành công ty luật
1. Văn phòng luật sư có thể chuyển đổi thành công ty luật trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty luật hợp danh trên cơ sở kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ của văn phòng luật sư theo quy định của pháp luật.
2. Hồ sơ chuyển đổi văn phòng luật sư được gửi đến Sở Tư pháp nơi công ty luật đăng ký hoạt động. Hồ sơ gồm có:
a) Giấy đề nghị chuyển đổi trong đó nêu rõ mục đích, lý do chuyển đổi và cam kết về việc kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của văn phòng luật sư được chuyển đổi;
b) Dự thảo Điều lệ của công ty luật chuyển đổi;
c) Giấy đăng ký hoạt động của văn phòng luật sư được chuyển đổi;
d) Danh sách thành viên hoặc luật sư chủ sở hữu; bản sao Thẻ luật sư của luật sư chủ sở hữu hoặc các luật sư thành viên của công ty luật chuyển đổi;
đ) Bản sao giấy tờ chứng minh về trụ sở trong trường hợp có thay đổi về trụ sở.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động cho công ty luật chuyển đổi; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Thủ tục công bố nội dung đăng ký hoạt động của công ty luật chuyển đổi được thực hiện theo quy định tại Điều 38 của Luật luật sư.
[3] Điều 8. Chuyển đổi hình thức tổ chức hành nghề luật sư
1. Văn phòng luật sư có thể chuyển đổi thành công ty luật trách nhiệm hữu hạn trên cơ sở kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ của văn phòng luật sư theo quy định của pháp luật.
Hồ sơ chuyển đổi hình thức tổ chức hành nghề luật sư được gửi đến Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động. Hồ sơ gồm có:
a) Giấy đề nghị đăng ký hoạt động công ty luật trách nhiệm hữu hạn;
b) Bản cam kết của người đứng đầu công ty luật trách nhiệm hữu hạn về việc kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ của văn phòng luật sư;
c) Văn bản thông báo cho khách hàng về việc chuyển đổi;
d) Dự thảo Điều lệ công ty luật trách nhiệm hữu hạn;
đ) Giấy đăng ký hoạt động của văn phòng luật sư;
e) Danh sách thành viên hoặc luật sư chủ sở hữu của công ty luật; bản sao Chứng chỉ hành nghề luật sư, Thẻ luật sư của các luật sư thành viên đối với trường hợp chuyển đổi thành công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên;
g) Bản sao giấy tờ chứng minh về trụ sở trong trường hợp có thay đổi về trụ sở.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động cho công ty luật trách nhiệm hữu hạn.
2. Thủ tục công bố nội dung đăng ký hoạt động của công ty luật trách nhiệm hữu hạn được thực hiện theo quy định tại Điều 38 của Luật Luật sư.
[4] Điều 28. Cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Ngành, nghề đăng ký kinh doanh không bị cấm đầu tư kinh doanh;
b) Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định tại các Điều 38, 39, 40 và 42 của Luật này;
c) Có hồ sơ đăng ký doanh nghiệp hợp lệ;
d) Nộp đủ lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định pháp luật về phí và lệ phí.
[5] Bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động;
[6] Trưởng văn phòng luật sư, Giám đốc công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc tất cả các thành viên của công ty luật hợp danh, thành viên của công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư;