100% đại biểu dự họp tán thành thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi)

21/06/2017
100% đại biểu dự họp tán thành thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi)
Sáng ngày 20/6/2017, với 100% đại biểu có mặt tán thành Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) gồm 8 chương, 48 Điều với nhiều nội dung mới quan trọng.
Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) được xây dựng nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong hoạt động trợ giúp pháp lý; tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững công tác trợ giúp pháp lý theo hướng chuyên nghiệp hóa, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước, xã hội; bảo đảm tính khả thi, tạo bước chuyển biến căn bản, đột phá trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý.
Trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định cho biết qua thảo luận về cơ bản các đại biểu Quốc hội tán thành với dự thảo Luật, đồng thời góp thêm nhiều ý kiến xác đáng, tâm huyết và trách nhiệm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội.
Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) có một số điểm mới cơ bản như sau:
Thứ nhất, lần đầu tiên có sự phân biệt trợ giúp pháp lý do Nhà nước tổ chức thực hiện và dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội. Hoạt động trợ giúp pháp lý do Nhà nước tổ chức thực hiện cần tuân theo các quy định của Luật này về đối tượng trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện, hình thức, lĩnh vực trợ giúp pháp lý,… Các tổ chức, cá nhân thực hiện trợ giúp pháp lý cần bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý. Việc tham gia trợ giúp pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật được thực hiện thông qua cơ chế ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý và đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý. Các tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý được hưởng thù lao và chi phí thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý. Việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiện nguyện của xã hội (theo Luật Luật sư, theo Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật) không phải thực hiện theo quy định của Luật này.
 Thứ hai, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân, khắc phục tình trạng bỏ sót nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân, bảo đảm các đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý được thực thi quyền của mình khi có vụ việc cụ thể. Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) khẳng định trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước có trách nhiệm bố trí kinh phí hàng năm “Kinh phí ngân sách nhà nước được bố trí trong dự toán ngân sách hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật ngân sách nhà nước”. Thêm vào đó, đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, Luật Trợ giúp pháp lý còn có quy định ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung ngân sách hàng năm của Trung ương để hỗ trợ việc thực hiện vụ việc phức tạp, điển hình.
Thứ ba, mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý. Đây là vấn đề đã được tiếp thu ý kiến và chỉnh lý nhiều lần, theo đó, đối tượng trợ giúp pháp lý đã được mở rộng hơn nhiều so với Luật hiện hành (từ 7 nhóm lên 14 nhóm).
Thứ tư, nâng cao chất lượng dịch vụ và chuyên nghiệp hóa hoạt động trợ giúp pháp lý thông qua việc chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý nhằm huy động được các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý có chất lượng. Chế định cộng tác viên trợ giúp pháp lý được kế thừa trên cơ sở có chọn lọc những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về pháp luật, có kinh nghiệm và thời gian để bảo đảm tham gia công tác trợ giúp pháp lý một cách thực chất, có hiệu quả.
Thứ năm, nâng cao vai trò của Sở Tư pháp trong việc giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý ở địa phương thông qua việc nắm bắt yêu cầu trợ giúp pháp lý và tình hình thực tiễn để lựa chọn ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật để bảo đảm đối tượng trợ giúp pháp lý ở địa phương được thực thi quyền được trợ giúp pháp lý.
Thứ sáu, quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác trợ giúp pháp lý, thông qua quy định rõ: trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp tạo điều kiện cho người được trợ giúp pháp lý được hưởng quyền trợ giúp pháp lý, tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật, đồng thời quy định thời hạn cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại địa phương về yêu cầu trợ giúp pháp lý của bị can, bị cáo, người bị hại là người được trợ giúp pháp lý.
Thứ bảy, tinh gọn, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức trợ giúp pháp lý. Từ tổng kết thực tiễn thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, nhằm bảo đảm phù hợp với Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) quy định việc rà soát, sắp xếp lại, sáp nhập hoặc giải thể các Chi nhánh đã được thành lập, bảo đảm hiệu quả hoạt động. Trong trường hợp thực sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập mới Chi nhánh. Chi nhánh chỉ được thành lập được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý.
Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp